Free Essay

Nha May Guong

In:

Submitted By chichi
Words 7980
Pages 32
Bài tập nhóm số 1
Nhà máy Gương Ô tô Engstrom:
Khích lệ nhân viên trong những thời điểm thuận lợi và khó khăn
Đã có một số thời kỳ khó khăn tại nhà máy Gương Ô tô Engstrom ở Richmond, Indiana, một doanh nghiệp tư nhân chuyên sản xuất gương xe tải và gương ô tô với 209 nhân viên. Trong hơn một năm, giám đốc nhà máy, Ron Bent và trợ lý của mình, Joe Haley, luôn tập trung nội dung của các cuộc họp Thứ 6 vào những con số đáng lo ngại, nhưng nội dung của cuộc họp ngày 14 tháng 5 thật khác biệt. Cả hai người đều cảm nhận rằng họ đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng tại nhà máy.
Bent nói với Haley một cách sôi nổi: "Đây là vấn đề thứ ba về năng suất, chỉ trong hai tuần? Chúng ta không thể ra khỏi tình trạng suy thoái này với hiệu suất làm việc như vậy." Ông cau mày lại khi ông đặt bút ký giấy phép vận chuyển bằng đường hàng không một đơn đặt hàng lớn tới nhà máy của Toyota nơi Sam Martinez quản lý dây chuyền lắp ráp. Sự khác biệt về mặt chi phí là vô cùng lớn, và nó phát sinh từ tốc độ sản suất chậm chạp tại Engstrom. Trong trường hợp của Engstrom, điều đó có nghĩa là một công việc lẽ ra phải hoàn thành vào Thứ 2 thì đến tận Thứ 5 mới xong. Nhưng Bent không thể nào chịu được ý nghĩ là sẽ giao hàng chậm cho Martinez, một khách hàng tuyệt vời nhưng cũng khó tính, người đã lựa chọn Engstrom làm nhà cung cấp được chứng nhận từ một năm trước đó. Chỉ có một nhà cung cấp nữa đạt được vị trí nhà cung cấp được chứng nhận cho nhà máy của Martinez– một sự ghi nhận cho độ tin cậy và chất lượng đặc biệt.
Sự lo lắng càng hiện rõ trên khuôn mặt của Bent. Vị trí nhà cung cấp được chứng nhận có nghĩa là Martinez đã đích thân cho phép các sản phẩm của Engstrom được sử dụng trong các dây chuyền ô tô mà không cần qua kiểm tra chất lượng. Cùng với vấn đề về năng suất, những vấn đề về chất lượng sản phẩm cũng đã len lỏi vào hoạt động của Engstrom. Bent hy vọng rằng ông không phải trả giá vì đã cho vận chuyển những chiếc gương kém chất lượng tới cho Martinez.
Haley nói "Ron, cả hai chúng ta đều biết rằng các nhân viên đã phàn nàn trong nhiều tháng nay, nhưng hôm qua và hôm nay, cuộc nói chuyện đã trở nên khá gay gắt. Tôi không nói rằng có mối liên hệ rõ ràng giữa những lần giao hàng suýt bị muộn với những lời lẽ làu bàu mà tôi được nghe, nhưng ông cũng cần phải cân nhắc”.
Bent biết rằng chỉ trong bốn tháng tại nhà máy này, Haley đã gây dựng được những mối quan hệ tốt với một số công nhân và có thể lấy được những thông tin hữu ích về tâm trạng của họ. "Họ phàn nàn về Kế hoạch Scanlon. Ông có thể nghe thấy người ta than phiền ở khắp nơi rằng “kế hoạch thưởng có nghĩa lý gì khi mà không tháng nào được nhận thưởng?” Và đó không chỉ là những người hoạt động tích cực trong UAW (Công đoàn Công nhân Ô tô), mặc dù công đoàn có thể bắt đầu đấu tranh tại cuộc họp tiếp theo của họ.”
Bent hoãn quyết định giao hàng nhanh lại. "Đó là một cái vòng luẩn quẩn. Chúng ta đang phải trả một cái giá quá cao cho sự giảm sút năng suất. Khoản tiền đó tôi thà dùng để trả cho công nhân để thưởng cho hiệu suất lao động của họ.”
Sau khi Haley đi, Bent ngồi lại một lúc nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ văn phòng của ông. Trở lại năm 1998, ông đã phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng tương tự, tinh thần làm việc của nhân viên giảm sút. Vào lúc đó, ông đã đánh giá năng suất lao động bình quân ở một mức khiêm tốn là 40% so với kỳ vọng. Sau khi nghiên cứu sự phục hồi của hai nhà máy khác ở Indiana, Bent đã cần mẫn gây dựng sự hỗ trợ cần thiết từ phía nhân viên và gia đình Engstrom để tiến hành Kế hoạch Scanlon ở nhà máy. Sự lựa chọn này đã tỏ ra thuận lợi: Kế hoạch Scanlon trả thưởng cho người lao động khi năng suất tăng lên đã trở thành các chất xúc tác chính trong sự phục hồi của Engstrom.
Việc kinh doanh tiến triển tốt; trong khoảng thời gian bảy năm, doanh số bán hàng đã tăng gấp bốn lần. Tuy nhiên, trong năm 2005, một cuộc suy thoái đã ảnh hưởng tới ngành công nghiệp này. Vào tháng 6 năm 2006, Bent đã buộc phải sa thải 46 nhân viên trong tổng số 255 nhân viên của mình. Những người ở lại vẫn không nhận được tiền thưởng Scanlon trong bảy tháng. Bent tự hỏi: Có phải kế hoạch này đã hết hữu dụng rồi? Nó có phải là nạn nhân của sự thành công của chính nó? Công nhân đã trở nên quen với khoản tiền thưởng lớn của Kế hoạch Scanlon, họ nhận thêm hàng trăm đô la ngoài lương chính. Vì vậy khi tiền thưởng ngừng lại, công nhân phản ứng với sự giận giữ và hoài nghi, như thể điều gì thuộc về quyền lợi của họ đã bị tước đoạt. Bây giờ, Bent phải xác định liệu sẽ xoá bỏ Kế hoạch Scanlon, thay đổi nó hay tìm kiếm giải pháp ở đâu đó để vẫn duy trì năng suất và đảm bảo chất lượng cho đến khi cuộc suy thoái kết thúc.
Tìm hiểu kế hoạch Scanlon
Kế hoạch Scanlon là kế hoạch thưởng trên toàn bộ tổ chức lâu đời nhất hiện vẫn còn được sử dụng tại Hoa Kỳ. Nhiều kế hoạch thưởng cho nhân viên (ví dụ, tiền thưởng điển hình trả cho đại diện bán hàng) là vấn đề then chốt đối với hiệu suất làm việc của nhân viên. Những kế hoạch khác căn cứ thưởng trên hiệu suất của một nhóm làm việc mà người nhân viên là một thành viên. Các kế hoạch ở tầm tổ chức như kế hoạch Scanlon tăng cường làm việc theo nhóm và hợp tác giữa các nhóm làm việc, đồng thời cũng chú trọng vào việc tiết kiệm chi phí và thúc đẩy nhân viên “làm việc thông minh hơn, chứ không phải chăm chỉ hơn”.
Bản kế hoạch Scanlon đầu tiên do Joseph Scanlon, người có bằng kế toán chi phí và là một quan chức của công đoàn công nhân thép của một nhà máy thép đang đối mặt với tình trạng phá sản, xây dựng nên vào những năm 1930. Scanlon làm việc với chủ nhà máy để lập danh sách công nhân của nhà máy nhằm tìm ra các ý tưởng để nâng cao năng suất. Cuối cùng, nhà máy đã được cứu. Mặc dù ban đầu Scanlon chỉ được định hướng để giúp các công ty nhỏ đang gặp khó khăn, các biến thể trong kế hoạch “chia sẻ lợi ích” của ông đã được rất nhiều tổ chức áp dụng.
Trung tâm của kế hoạch này là khái niệm quản lý hợp tác. Scanlon tin rằng cá nhân sẽ làm việc chăm chỉ để giúp tổ chức của họ đạt được mục tiêu, miễn là họ có cơ hội chịu trách nhiệm về hành động của mình và áp dụng kỹ năng mình có. Một chiến thuật quan trọng là truyền đạt các dữ liệu liên quan đến tài chính và kinh doanh trên khắp các cấp độ của tổ chức. Mặc dù đây là chỉ một động lực tượng trưng đối với nhiều người lao động, chiến thuật này cũng có một cơ sở thực tiễn, đó là: tất cả mọi người đều được khuyến khích đề xuất các cách thức nhằm nâng cao năng suất của nhà máy.
Ba thành phần của bản kế hoạch- nhân viên các cấp trình đề xuất cải tiến; cơ cấu của các ủy ban trong công ty đánh giá các đề xuất này; và chia sẻ thành quả của việc tăng năng suất thông qua thưởng hàng tháng – đã kết hợp rất tốt với nhau để mang lại những thay đổi lớn về hành vi và thái độ của nhân viên. Khi mọi thứ đi đúng hướng, tinh thần làm việc theo nhóm và sự chia sẻ kiến thức thường được nâng cao trong các tổ chức Scanlon: hợp tác thúc đẩy sáng tạo và đổi mới, sự sáng tạo và đổi mới lại thúc đẩy những cải tiến về năng suất, nhờ đó đảm bảo việc trả thưởng hàng tháng. Văn hóa ở một nhà máy thực hiện kế hoạch Scanlon cũng trở nên thân thiện với thay đổi hơn, vì công nhân có cơ hội kiếm nhiều tiền hơn nhờ thay đổi nguyên trạng cho tốt hơn.
Trong khi tất cả các kế hoạch Scanlon đều có chung những đặc điểm này, cũng có thể được thay đổi để hỗ trợ cho từng chiến lược cụ thể của mỗi tổ chức. Các nhà máy như Engstrom tập trung vào tiết kiệm chi phí, có nghĩa là sản xuất được nhiều hơn trong mỗi giờ sử dụng lao động. Do đó, tiền thưởng cho tất cả mọi người tại Engstrom được dựa trên tỷ lệ sản xuất cho mỗi giờ lao động. Các tổ chức với những chiến lược khác nhau căn cứ kế hoạch thưởng Scanlon trên những yếu tố khác nhau, nhưng ở Engstrom, vấn đề then chốt là đạt năng suất cao hơn mà lại tiết kiệm lao động. Hình 1 cho thấy những thành phần cơ bản về mặt cấu trúc và tài chính của kế hoạch Scanlon tại Engstrom.
Con đường dẫn đến việc áp dụng Kế hoạch Scanlon tại Engstrom
Nhà máy Gương Ô tô Engstrom đi vào hoạt động từ năm 1948 và được hưởng những thành công đáng kể trong hầu hết quãng thời gian hoạt động của mình. Đến cuối những năm 1990, nhà máy này đã bị sa lầy trong tình trạng phi lợi nhuận. Tại thời điểm đó, nhà máy đã thiết kế lại dây chuyền sản xuất của mình để tích hợp công nghệ mới. Việc chuyển đổi không được suôn sẻ, và những trì trệ về mặt sản xuất ngày càng tăng khiến cho khách hàng tức giận và cuối cùng khiến họ xa lánh. Giám đốc nhà máy thiếu sự tinh tế cần thiết đối với công nghệ để nhanh chóng tìm ra giải pháp và không thích hợp để làm việc với một công đoàn ngày càng có tinh thần đấu tranh cao (ông ta tuyên bố rằng công đoàn đang “nằm chờ” ông ta phạm sai lầm và “muốn làm ban lãnh đạo nhà máy tổn hại tài chính do những lời phàn nàn”. Cay đắng và mệt mỏi vì những cuộc xung đột, người quản lý từ chức vào năm 1998. Ron Bent, một nhà quản lý thành công ở độ tuổi 40, được thuê từ một nhà máy sản xuất trục cam nhằm đảo ngược tình thế.
Bent tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chương trình thưởng cho người lao động và muốn thành lập một chương trình tại Engstrom. Dựa trên kinh nghiệm với các loại chương trình khác nhau và nhờ học hỏi thêm sau đó, ông đã có được những ý kiến mạnh mẽ về loại kế hoạch thưởng nào có thể hoạt động tốt nhất tại Engstrom. Tại nhà máy sản xuất trục cam, ông đã có kinh nghiệm với một kế hoạch khen thưởng cá nhân, chứ không phải khen thưởng các nhóm hay toàn thể các nhân viên cho năng suất làm việc của họ. Ông ta không quan tâm đến kết quả. “Kế hoạch khuyến khích cá nhân đòi hỏi nhiều nhân lực. Bạn thường phải tranh cãi với công đoàn. Theo kinh nghiệm của tôi, bất cứ khi nào bạn đặt ra mức lương cho nhân viên, anh ta sẽ tìm ra cách để vượt qua mứclương đó.” Tác động tích luỹ từ nhiều thay đổi nhỏ về công cụ và phương pháp có thể dẫn đến tình trạng các tiêu chuẩn thưởng ít có liên quan tới nhiệm vụ của nhân viên. Để chứng minh cho quan điểm của mình, Bent tuyên bố rằng kế hoạch tại nhà máy trục cam đã "vượt quá mong đợi" đến nỗi trung bình mỗi công nhân nhân nhận được 150% mức lương hàng ngày.
Bent có ý kiến mạnh mẽ tương tự về các kế hoạch thưởng nhóm: "Nếu bạn định thay đổi hoạt động của mình, hoặc xây dựng một công nghệ mới, sản phẩm mới hay dây chuyền sản xuất mới, thì với một kế hoạch thưởng cá nhân hay thưởng nhóm, quá trình lắp đặt và đưa vào sử dụng sẽ lâu hơn nhiều.”
Bent nghĩ Kế hoạch Scanlon là tốt nhất cho Engstrom, dựa trên những thách thức mà nhà máy phải đối mặt: "Với Scanlon, công nhân dễ dàng tiếp nhận phương pháp mới và máy móc mới hơn, vì họ cảm thấy họ là một phần của chương trình toàn công ty. Khi bạn đã thiết lập một kế hoạch Scanlon đúng cách, bạn cũng đã xây dựng một mạng lưới giao tiếp tốt trong khắp tổ chức của bạn."
Mặc dù Bent đã từng làm việc và viếng thăm các nhà máy áp dụng nhiều kế hoạch thưởng, ông cảm thấy rằng Engstrom quá nhỏ để có thể thích ứng với độ phức tạp của nhiều kế hoạch thưởng. Đến đầu năm 1999, ông và đội ngũ quản lý của mình bắt đầu nói về khái niệm Scanlon tại nhà máy, tập trung vào những lợi ích tiềm năng cho công nhân. Họ cũng đăng tải thông tin về Scanlon lên các bảng thông tin và Bent dành nhiều giờ thuyết phục những công nhân mà ông nghe nói là có khả năng gây ảnh hưởng.
Thêm vào đó, Bent đã tổ chức một chuyến viếng thăm cho một nhóm công nhân tới một nhà máy khác đã thực hiện Scanlon. Bent giải thích: ủy ban thương lượng của chúng tôi hoà nhập với ủy ban thương lượng của nhà máy khác một cách thoải mái, và một số người của chúng tôi tham gia các cuộc họp về Scanlon ở nhà máy đó. Đội ngũ quản lý của tôi chỉ đứng đằng sau và để cho các công nhân tự phát triển những cảm nhận của riêng họ về tình hình đó. Công nhân đã trở lại đầy nhiệt tình, và họ khiến cho các đồng nghiệp khác ở Engstrom chấp nhận Kế hoạch Scanlon.
Trong suốt những tháng vận động chiến dịch, Bent luôn gửi gắm một thông điệp nhất quán trong mọi cuộc giao tiếp giữa ông với bất kỳ nhân viên nào tại Engstrom rằng: Kế hoạch Scanlon sẽ chỉ được thực hiện tại nhà máy nếu đại đa số công nhân muốn có nó.
Năm 1999 Tháng 12 năm 1999, một bản tuyên bố chính thức về Kế hoạch này đã được chuẩn bị để trình bày cho tất cả nhân viên nhà máy thảo luận, và cuối cùng là bỏ phiếu. Có một thách thức lớn đó ban quản lý khẳng định rằng vì cần có sự đồng thuận cao của nhân viên, nên phải có 75% phiếu “ủng hộ”. Ngày 10 Tháng 12, 81% công nhân đã bỏ phiếu ủng hộ Bản kế hoạch. Sau đó, mỗi nhân viên ký một bản Thoả thuận Kế hoạch thưởng Scanlon. Sau đây là những điều khoản chính của bản thoả thuận: • Tiết kiệm lao động sẽ được chia cho người lao động 75% và cho công ty 25%. • Một khoản dự trữ sẽ được thiết lập để trang trải cho những tháng khi sản xuất giảm dưới tỉ lệ cơ bản. Trước khi thanh toán hàng tháng là 75% cho người lao động và 25% cho công ty, 25% của tất cả các khoản tiền thưởng (cả phần của nhân viên và công ty) sẽ được trích ra làm một khoản dự trữ trong trường hợp tháng thâm hụt – là tháng khi tổng chi phí trả lương vượt bảng lương cho phép. • Cơ cấu của các Ủy ban Sản xuất và Xem xét Scanlon, được xây dựng để kích thích và sau đó là đánh giá những đề xuất của nhân viên, được trình bày cụ thể. Các phương pháp bổ nhiệm hay bầu các thành viên cũng được thiết lập. • Điều kiện để ban quản lý có thể điều chỉnh tỷ lệ cơ sở cũng được thể hiện rõ ràng. Những thay đổi về mặt tiền lương, khối lượng bán hàng, giá cả, sản phẩm hỗn hợp, hợp đồng phụ hay công nghệ được xác định là có khả năng làm tăng hoặc giảm giá bán hoặc mức giá chuẩn, do đó, sẽ là yếu tố khiến cho tỷ lệ cơ sở thay đổi.
Phần khó khăn nhất để đưa kế hoạch này vào hoạt động là việc tính toán tỉ lệ Scanlon cơ bản của nhà máy. Cần phải có một mức chuẩn. Ban quản lý nhà máy lựa chọn một tỷ lệ chi phí tiền lương trên doanh số. Chiến lược của họ là bắt đầu với tổng doanh số trong một thời hạn nhất định, sau đó lấy một tỷ lệ phần trăm của tổng số đó làm chi phí lao động chuẩn hoặc quy phạm, bao gồm chi phí hỗ trợ quản lý. Ví dụ, tỷ lệ 0,50-1 có nghĩa là chi phí quy phạm chiếm 50% tổng doanh thu bán hàng và nhân viên sẽ được trả thưởng cho bất kỳ tháng nào có chi phí trả lương thấp hơn 50% tổng doanh thu bán hàng (mức thưởng dựa trên tỷ lệ tiết kiệm đạt được).
Bent nhớ lại hai lý do tại sao việc lập tỷ lệ lại gây ra những tranh cãi kéo dài trong đội ngũ quản lý, bao gồm một nhà tư vấn Scanlon Bent thuê, và đại diện cho người lao động:
Ý tưởng là để kiểm tra các tỷ lệ quá khứ trong một thời kỳ tiêu biểu trong chu kỳ hoạt động của nhà máy, bao gồm tất cả những thăng trầm có thể xảy ra. Nhưng với những rắc rối tại nhà máy, chúng tôi thấy khó mà xác định được một khoảng thời gian gần đây để làm thời kỳ tiêu biểu. Và chúng tôi cũng cần phải cân nhắc một thực tế là nhân viên hiện đang làm việc ở một tốc độ không thể chấp nhận được. We wanted to motivate them to excel, not just to perform less poorly. Chúng tôi muốn khuyến khích họ làm việc xuất sắc, chứ không chỉ là làm việc đỡ kém hơn.
Việc xây dựng lại năng suất thực tốt nhất cho thấy, tỷ lệ dao động trong khoảng 30,5% đến 68,2% so với năm tài chính trước đó. Tỷ lệ trung bình trong 12 tháng là 43,7%. Mặc dù chuyên gia tư vấn Scanlon đề nghị một mục tiêu là 44%, tỷ lệ cuối cùng đã được thiết lập là 38,0%.
Ghi nhận việc thực hiện Kế hoạch Scanlon tại Engstrom
Việc thực hiện Kế hoạch nhanh chóng dẫn đến sự gia tăng năng suất, được đo bằng tỷ lệ tiền thưởng (chi phí tiền lương trên giá trị bán hàng của sản xuất). Mặc dù có rất ít các đề xuất ban đầu của người lao động làm gia tăng năng suất, nhưng các ủy ban vẫn chấp nhận càng nhiều đề xuất càng tốt (276/305 trong năm đầu tiên). Bent nói: “Chúng tôi thực sự muốn hỗ trợ việc nộp các đề xuất này.”
Bent cũng ngay lập tức thiết lập các cuộc họp giao tiếp hàng tháng để tất cả nhân viên tham gia.
Chúng tôi thảo luận kết quả của tháng trước một cách cụ thể, khen ngợi những công nhân có đề xuất cải tiến. Chúng tôi cũng chia sẻ nhận thức của mình về điều kiện kinh doanh, xác định khách hàng mới mà chúng tôi làm việc cùng, mô tả cụ thể về thiết bị mới sẽ được đưa vào sử dụng tại nhà máy – bất cứ điều gì mà chúng tôi cảm thấy có thể có ích cho công nhân. Trước đây họ chưa từng được tiếp cận với một kiểu giao tiếp như thế này. Sau đó, chúng tôi để cho công nhân đặt câu hỏi, và việc này hoàn toàn thoải mái. Tôi chỉ đặt ra hai giới hạn, đó là không được nói về tính cách của bất kỳ ai, và không được thảo luận mức lương của mỗi cá nhân. Nếu tôi không thể trả lời một câu hỏi nào đó, tôi sẽ đề nghị một trong số nhân viên của tôi trả lời. Tôi muốn công nhân thấy chúng tôi không cố gắng che giấu bất cứ điều gì.
Căng thẳng và xung đột trong nhà máy giảm bớt, vì hầu hết nhân viên của nhà máy đã nhận thức được ý định nghiêm túc của bản kế hoạch. Khi nhà máy đạt được tăng trưởng, lợi nhuận cao hơn, và tiêu chuẩn chất lượng ổn định, nhân viên cũng được nhận tiền thưởng xứng đáng. Scanlon bonuses were paid every month of every year following plan adoption, in addition to normal wage increases. Tiền thưởng Scanlon được thanh toán hàng tháng trong năm kể từ khi thực hiện kế hoạch, ngoài việc tăng lương bình thường. (Hình 1 trình bày một ví dụ về bảng lương của công nhân thể hiện tiền thưởng.) Jim Lutz, công nhân trong một dây chuyền của nhà máy nói “Đừng hiểu sai tôi, vấn đề không chỉ là tiền, mặc dù tiền rất quan trọng. Tôi được khen thưởng vì những suy nghĩ của mình, chứ không phải vì hàng ngày tôi thực hiện những nhiệm vụ giống hệt nhau. Với tôi, điều đó có nghĩa là nhà máy trân trọng kiến thức tôi có về cách vận hành dây chuyền.”
Theo Bent, Some of the most important cultural changes, according to Bent, were not apparent in the quantitative measures:một số thay đổi văn hóa quan trọng nhất không thể đo được bằng phương pháp định lượng.
If, say, a polisher's machine went down, he called the maintenance man, who came over to examine the machine and then went back his area to get a tool – one tool. Chẳng hạn, nếu một chiếc máy đánh bóng bị hỏng, nhân viên bảo trì sẽ đến kiểm tra máy và sau đó quay lại chỗ anh ta để lấy dụng cụ - chỉ một dụng cụ mà thôi. Nếu dụng cụ đó không dùng được, anh ta sẽ quay trở lại lấy một dụng cụ khác. Đôi khi, anh ta cứ phải đi đi lại lại đến ba bốn lần. Tại sao? Bởi vì điều đó không ảnh hưởng đến tiền lương của anh ta, hay đến bất cứ khía cạnh công việc nào của anh ta, cho dù máy có hoạt động trở lại hay không. Giờ đây, nhân viên bảo trì sẽ mang cả hộp dụng cụ của anh ta đến chỗ máy hỏng. Và nhân viên vận hành máy sẽ giúp anh ta, giống như y tá trong các cuộc phẫu thuật, chứ không đứng quanh đó và xỏ tay túi quần.
At Scanlon meetings, workers regularly expressed satisfaction with these changes in their working conditions. Tại các cuộc họp Scanlon, công nhân thường xuyên bày tỏ sự hài lòng với những thay đổi về điều kiện làm việc của họ. Dori Andrews, a veteran of 10 years at the plant, said, “People see themselves as a more cooperative workforce—Engstrom is now a better place to work than it was before we brought in Scanlon. And this is the first place I've ever worked where management does not automatically say 'no' to workers. Dori Andrews, một nhân viênđã làm việc 10 năm tại nhà máy, cho biết, "Mọi người thấy họ là một lực lượng lao động có tinh thần hợp tác hơn. Giờ đây Engstrom tốt hơn rất nhiều so với trước kia khi chúng tôi chưa thực hiện kế hoạch Scanlon. Và đây là nơi đầu tiên tôi làm việc mà cấp quản lý không tự động nói không với nhân viên. Họ lắng nghe.
Over time, however, enthusiasm waned and dissatisfaction grew with certain aspects of Scanlon. Tuy nhiên, theo thời gian, sự nhiệt tình đã nhạt dần và sự bất mãn với một số khía cạnh nhất định của Scanlon bắt đầu tăng. Suggestion rates dropped precipitously, down from hundreds to 50 a year. Tỉ lệ nhân viên đưa ra đề xuất đã giảm một cách nhanh chóng, từ hàng trăm xuống còn 50 đề xuất một năm. And two consistent themes were heard in worker complaints: Và nhân viên thường hay phàn nàn về hai chủ đề nhất quán sau: • Distrust of bonus calculations: Although all employees received a detailed explanation of the process and could easily access the bonus calculations, some employees thought that the company might be “playing with” the numbers. Ngờ vực cách tính toán tiền thưởng: Mặc dù tất cả nhân viên đều được giải thích chi tiết về quy trình và có thể dễ dàng tiếp cận các tính toán tiền thưởng, một số người nghĩ rằng công ty có thể "biến hóa" những con số này. The complex nature of the calculation itself, which some felt was “full of bean-counter jargon,” also caused distrust. Tính chất phức tạp của bản thân cách tính toán, mà theo cảm nhận của một số người là “đầy những biệt ngữ của dân kế toán”, cũng gây ra mất lòng tin. Before the plan was adopted, production achievement was measured by total units produced. However, the Scanlon bonus was influenced by many other factors, including the length of the month, sales mix, overtime, and product returns. Trước khi kế hoạch được thông qua, thành tích sản xuất được đo bằng tổng số đơn vị sản xuất ra. Tuy nhiên, tiền thưởng Scanlon chịu ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố, bao gồm độ dài của tháng, hỗn hợp bán hàng, làm thêm giờ, sản phẩm trả lại. Conceivably, a low Scanlon bonus could be paid following a month in which a record number of units were produced. Dễ hiểu là, tiền thưởng Scanlon thấp có thể được trả ngay tháng tiếp theo, tháng có số lượng đơn vị sản phẩm được sản xuất cao kỷ lục. Một số nhân viên cũng chia sẻ một điều gây mất lòng tin nữa đó là họ hoài nghi bất cứ khi nào ban quản lý thay đổi tỉ lệ. Việc này đã diễn ra 4 lần từ năm 2000 đến năm 2005 (mức giảm cuối cùng là 32,6%). Một số công nhân cáo buộc ban quản lý đã tạo ra “củ cà-rốt di động” bất chấp những lời giải thích của ban quản lý về những cắt giảm này. Another point of distrust shared by some employees was suspicion whenever the management team changed the ratio, which occurred four times between 2000 and 2005 (the final reduction was to 32.6%). • Question of fairness: Some employees felt that supervisors should have received a reduced bonus because they were ”not working as hard as we are.” Vấn đề công bằng: Một số nhân viên cảm thấy rằng nên giảm thưởng cho các giám sát viên, vì họ "không làm việc vất vả như chúng tôi." These reactions did not surprise Bent: “A Scanlon program won't perpetuate itself. You have to give it a shot in the arm every so often—whenever the work force needs it.” Các phản ứng này không gây ngạc nhiên cho Bent: “Một chương trình Scanlon bản thân nó không tự kéo dài. Phải xốc nó lại một cách thường xuyên – bất cứ khi nào lực lượng lao động cần đến nó.”

Trước khi Bent quyết định nên xốc lại như thế nào, sự suy thoái của ngành bắt đầu từ năm 2005 đã kéo tụt tinh thần của người lao động cũng như những con số bán hàng. Không khí của những buổi họp hàng tháng giữa Bent với nhân viên ngày càng trở nên nặng nề, vì ông ta đề cập tới sự sa thải có thể xảy ra và những nguyên nhân gây sút giảm sản lượng. Rõ ràng là những tháng không có tiền thưởng đã đóng băng mối quan hệ giữa người lao động với ban quản lý (xem Hình 2 để biết kế hoạch xử lý thâm hụt tháng như thế nào). Những lời kêu gọi của Bent về việc bảo tồn văn hóa của nhà máy, và nguy cơ gia đình Engstrom có thể đóng cửa nhà máy đó nếu xu hướng lợi nhuận không được đảo chiều ngày càng bị người ta lờ đi, như không nghe thấy.

Khi việc sa thải xảy ra vào giữa năm 2006, nó đã làm lung lay niềm tin ở cả những nhân viên ủng hộ Scanlon nhiệt tình nhất trong lực lượng lao động. Sự kiện này là một cột thu lôi cảm xúc trong nhà máy, và cũng là một ranh giới tạm thời giữa thời kỳ thuận lợi và thời kỳ khó khăn của nhà máy. Đến thời điểm Joe Haley gia nhập đội ngũ quản lý vào tháng 1 năm 2007, đã có càng nhiều bằng chứng rõ ràng cho sự bất mãn và nổi loạn của công nhân. Chẳng hạn, khi xem xét lại báo cáo kho, Harley nghi ngờ có sự ăn cắp, và cuộc nói chuyện của anh ta với công nhân càng làm gia tăng mối nghi ngờ này.

Tháng 7 năm 2007, Bent cảm thấy ông phải khẩn cấp thực hiện những thay đổi trước khi tình hình trở nên tồi tệ hơn nữa. Nhưng ông ta cũng phân vân không biết sự thay đổi nào sẽ có hiệu quả. Trong tất cả những gì ông từng đọc và từng nghe, ông chưa từng nghe thấy kế hoạch thưởng thay thế nào để có thể tạo động lực cho nhân viên làm việc tốt nhất trong cả những thời kỳ thuận lợi cũng như thời kỳ khó khăn, vì thế, ông ta không tìm được lý do nào hợp lý để thay thế Scanlon với một kế hoạch khác. Liệu ông ta có thể điều chỉnh lại Scanlon bằng cách nào đó để nó hoạt động tốt hơn trong thời kỳ suy thoái này được không? Liệu ông ta có cố gắng xác định và thay đổi những yếu tố tổ chức có thể phá hoại Scanlon tại nhà máy này?

Khi sự thiếu chắc chắn của Bent về những vấn đề này ngày càng lớn, người ta bắt đầu nghi ngờ về năng suất làm việc của chính ông. Ông ngày càng cảm thấy Scanlon là một quá trình phát triển tổ chức hơn là một bản kế hoạch mô tả các bước cụ thể phải tuân theo. Liệu ông ta và những nhà quản lý của mình đã làm hết những gì họ có thể để Scanlon có được sự thành công bền vững chưa? Có phải họ đã suy nghĩ quá hạn hẹp rằng Scanlon chỉ là một kế hoạch thưởng thay vì là một cơ hội lớn để xây dựng một nền văn hóa khác biệt cho lực lượng lao động? Hay ông ta còn thiếu sót điều gì?
Hình 1 Thành phần tài chính và Cơ cấu của Kế hoạch Scanlon tại Engstrom
Quy trình Kế hoạch Đề xuất 1. Nhân viên đề xuất các cách để nâng cao năng suất tại nhà máy. Các loại đề xuất gồm có phương pháp (ví dụ, xóa bỏ những hoạt động không cần thiết), máy móc và thiết bị (ví dụ, giảm thời gian khởi động máy); và công việc bàn giấy (ví dụ, đơn giản hóa hoặc kết hợp các mẫu giấy tờ). 2. Lập tám ủy ban sản xuất, mỗi ủy ban bao gồm 1 giám sát và 2 đại diện công nhân được bầu, để xem xét các đề xuất, chuyển những đề xuất gây tranh cãi hay những đề xuất có chi phí thực hiện cao hơn mức cụ thể cho ủy ban xem xét. 3. Ủy ban xem xét quyết định cách xử lý tất cả các đề xuất do ủy ban sản xuất trình lên, đồng thời cũng xem xét cách tính thưởng hàng tháng của ban quản lý nhà máy. Ủy ban này bao gồm:
• 5 nhân viên được bầu từ ủy ban sản xuất.
• Bốn đại diện ban quản lý do giám đốc nhà máy chỉ định.
• Giám đốc nhà máy.

Kế hoạch thưởng

• Thưởng trả hàng tháng như là một phần của bảng lương. • Được tính bằng (tổng chi phí lương cộng ngày nghỉ lễ)/giá trị bán hàng của sản xuất. • Tỉ lệ cơ bản tượng trưng cho tổng chi phí lương bình thường hay dự kiến để tạo ra doanh số đáng giá một đô la, được thể hiện dưới tỉ lệ phần trăm của giá trị bán hàng của sản xuất.

Ví dụ về cách tính thưởng:

|Giá trị bán hàng của sản xuấta |$4,000,000 |
|Bảng lương cho phép ở 38% (or 38% of sales value)b |1,520,000 |
|Bảng lương thực tế |1,280,000 |
|Tiền thưởng Scanlon |240,000 |
|25% dự trữc |60,000 |
|Tiền thưởng còn lại |180,000 |
|Công ty hưởng: 25% |45,000 |
|Nhân viên hưởng: 75% |135,000 |
| Bảng lương tham giad |1,260,000 |
|Phần trăm thưởng(phần của nhân viên/ |10.71% |
|Bảng lương tham gia) | |

a. Ban quản lý điều chỉnh giá trị này khi có hàng bị trả về kho, tăng hay giảm số lượng trong kho – số lượng này không tương ứng với số hàng vận chuyển đi. b. Chi phí lao động bình thường là 38% giá trị bán hàng của sản xuất, hay 38 xen trong mỗi đô la sản phẩm sản xuất ở giá trị bán hàng. c. 25% được trích ra trước khi trả thưởng để lập quỹ dự trữ cho những tháng thâm hụt. d. Bảng lương thực tế trừ bảng lương của tất cả nhân viên trong những ngày nghỉ được trả lương (kỳ nghỉ, lễ tết, trách nhiệm dân sự, vv) hay những ngày đi làm dưới 60 ngày. Ví dụ về tiền thưởng Scanlon trong mức lương sàn hàng tháng của nhân viên

|Họ tên |Số giờ làm việc |Số giờ làm thêm |Mức lương mỗi |Tổng số lương |Tỉ lệ thưởng % |Tiền thưởng |Tổng thu nhập |
| | | |giờ | | | | |
|J. Smith |184 |36 |$15 |$3,570 |10.71 |$382 |$3,952 |

Hình 2 Tháng thâm hụt theo kế hoạch Scanlon

Đến cuối năm Scanlon, vào ngày 30 tháng 6, tất cả số tiền còn lại trong tài khoản dự trữ được chia cho người lao động là 75%, còn 25% là cho công ty. Đây được coi là tiền thưởng tháng lương thứ 13. Trong trường hợp năm Scanlon kết thúc với khoản dự trữ bị thâm hụt, toàn bộ số thâm hụt đó sẽ do công ty chịu, và sẽ không bị tính vào bất kỳ khoản tiền thưởng nào trong tương lai. Ví dụ về khoản dự trữ dưới đây minh họa cách hoạt động của nó, và thể hiện những tác động của tháng thâm hụt.

Ví dụ về tài khoản dự trữ

|Tháng |Cộng tháng này |Tổng dự trữ |
|Tháng 1 |$22,000 |$22,000 |
|Tháng 2 |34,550 |56,550 |
|Tháng 3 (tháng thâm hụt) |(12,000) |44,550 |
|Tháng 4 |19,982 |64,532 |
|Tháng 5 |28,890 |93,422 |
|Tháng 6 |26,578 |120,000 |
| |Công ty hưởng—25% |$30,000 |
| |Nhân viên hưởng—75% |90,000 |
| |Tổng |$120,000 |

Ví dụ về tháng thâm hụt

|Giá trị năng suất |$2,100,000 |
|Bảng lương cho phép ở 37% |777,000 |
|Bảng lương thực thế |795,000 |
|Tiền thưởng |$18,000 |
|Dự trữ cho tháng thâm hụt |(-$18,000) |

Trong ví dụ này, bảng lương thực tế cao hơn bản lương cho phép, dẫn đến sự thâm hụt tiền thưởng. Khoản này sẽ được tính vào tài khoản dự trữ và làm giảm số tiền còn lại trong tài khoản dự trữ đến cuối năm Scanlon.

Câu hỏi:

1. Hãy xác định các vấn đề chính của Engstrom, và sau đó xác định các đóng góp chủ yếu về lý thuyết mà kế hoạch Scanlon có thể mang lại cho một công ty. Liệu Scanlon có phải là giải pháp tốt cho các thách thức của Engstrom?

2. Các yếu tố tổ chức nào ở Engstrom tác động đến hiệu quả của Scanlon tại nhà máy? Ở các tổ chức khác, kể cả tổ chức của bạn, các hệ thống trả lương theo hiệu quả hoạt động bị tác động tích cực hoặc tiêu cực bởi các yếu tố tổ chức khác như thế nào?

3. Theo cảm nhận của bạn, tiền quan trọng như thế nào trong vai trò một yếu tố khích lệ? Tiền lương có khích lệ bạn không? Liệu có khả năng bạn sẽ dành ít thời gian hơn cho các nỗ lực đổi mới, sáng tạo nếu bạn không được trả công cho nỗ lực đó? Lương, và cảm nhận của người lao động rằng lương hiếm khi được trả một cách công bằng cho hiệu quả làm việc, làm cản trở sự hợp tác trong một tổ chức như thế nào?

4. Nếu bạn là Bent, bạn sẽ giải quyết vấn đề ở Engstrom như thế nào?

5. Nếu đây là công ty của chính bạn, bạn sẽ giải quyết vấn đề mà công ty đang phải đối mặt như thế nào?

-----------------------
Nhà máy Gương tự động Engstrom – Động cơ thúc đẩy trong những thời điểm thuận lợi và khó khăn | 2175

Similar Documents

Free Essay

Homestay

...ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - - - - - - QTKD LƯU TRÚ ĐỀ TÀI PHÂN TÍCH ĐẶC TRƯNG CỦA CƠ SỞ LƯU TRÚ NHÀ CHO KHÁCH DU LỊCH THUÊ Giáo viên hướng dẫn:Cô Hải Đường Năm học 2013 - 2014 Nhóm thực hiện:Lưu trú k3.1 NHÓM Lưu trú k3.1: STT | Tên thành viên | Lớp | 1 1 | Hồ Phương Nam | 36k3.1 | 22 2 | Nguyễn Hữu Vân Hoa | 36k3.1 | 4 3 | Mai Thị Mai Ly | 36k3.1 | 54 4 | Phan Thị Thanh Thảo | 36k3.1 | 5 | Phạm Thị Thùy Trang | 37H11k3.1 | 1) Đối tượng thu hút: Nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê được bắt nguồn từ nhu cầu của du khách muốn tiếp cận, gần gũi, được tìm hiểu rõ hơn về văn hóa, lịch sử, đời sống hàng ngày và con người hay ẩm thực…tại nơi đến tham quan du lịch. Khác hẳn với hình thức du lịch nghỉ dưỡng thường chọn những nơi nghỉ có chất lượng dịch vụ tốt, “nhà ở có phòng cho KDL thuê” chọn nhà dân bản địa cho khách du lịch nghỉ chân. Như vậy đồng nghĩa với việc khách du lịch sẽ cùng sinh hoạt với gia chủ mọi hoạt động trong gia đình, từ giờ giấc nghỉ ngơi, ăn uống đến hoạt động vui chơi giải trí… Tùy theo từng mục đích của du khách mà du lịch. Nhưng hầu hết đều chọn cách ba trong một, tức “cùng ăn, cùng nghỉ, cùng chơi”. Bởi đối tượng khách du lịch của loại hình du lịch này rất háo hức tiếp cận triệt để văn hóa, con người, ẩm thực của điểm đến đã chọn. Năm năm trở lại đây, “nhà ở có phòng cho KDL thuê” phát triển mạnh mẽ ở nhiều địa phương như Sa Pa (Lào Cai), Mai Châu (Hòa Bình), Hội An (Quảng Nam)… mang...

Words: 3200 - Pages: 13

Free Essay

Daobashen

...Vấn đề đạo đức của giới trẻ ngày nay Tu sĩ Lôrensô Vũ Văn Trình MF Chúng ta đang sống trong thời đại mới - thời đại văn minh, khoa học, nhất là sự phát triển vượt bậc của ngành công nghệ thông tin; nó đã làm cho cuộc sống con người ngày được nâng cao. Đáng tiếc thay giá trị đạo đức đang bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng, duy vật chất, kéo theo đó là cả một hệ lụy. Hơn nữa, giới trẻ ngày nay chạy theo lối sống hưởng thụ, mà họ cho là hợp thời, sành điệu; họ bỏ qua những giá trị đạo đức là nền tảng cốt yếu của con người. Vấn đề này đang là thách đố cho các nhà giáo dục cũng như những người có trách nhiệm. 1. Tình trạng đạo đức của giới trẻ “Giới trẻ là tương lai của Giáo hội và nhân loại”. Đó là câu khẳng định nhiều người đã biết. Nhưng đối diện với thực tế thì ai cũng thấy lo lắng cho tương lai ấy. Liệu nó có tốt đẹp như người ta tưởng không? Cứ như thực tế hiện nay thì nhân loại sẽ đi tới đâu, khi giới trẻ sống thực dụng chỉ chạy theo những giá trị vật chất mà bỏ quên những giá trị tinh thần. Tình trạng giới trẻ sống buông thả, không coi trọng những giá trị đạo đức đã và đang diễn ra ở nhiều nơi. Bằng chứng là các phương tiện truyền thông đã liên tiếp đăng tải các bài viết phản ánh về thực trạng này. Chúng lôi kéo bè cánh để đánh nhau (cả trai lẫn gái), thậm trí hành hung cả thầy cô giáo, rồi con giết cha, anh giết em; trẻ vị thành niên cũng gây ra nhiều vụ án mạng. Những hành vi tàn bạo này được đăng trên mặt báo chỉ là tảng băng nổi, thực tế còn nhiều hơn nữa. Cách đây...

Words: 3255 - Pages: 14

Free Essay

Everything

...1.Ngày nay, trên thế giới, môi trường là vấn đề được quan tâm hàng đầu . Ở các quốc gia tiên tiến , vấn đề giữ gìn vệ sinh môi trường được quan tâm thường xuyên nên việc xả rác và nước thải bừa bãi hầu như không còn nữa . Người dân được giáo dục rất kỹ về ý thức bảo vệ môi trường sống xanh – sạch – đẹp . Đáng buồn thay nước ta có một hiện tượng phổ biến là vứt rác ra đường hoặc những nơi công cộng , không giữ gìn vệ sinh đường phố . Việc làm đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường mà cụ thể ở đây là gây ô nhiễm môi trường .  Hiện tượng không giữ gìn vệ sinh đường phố có rất nhiều biểu hiện nhưng phổ biến nhất là vứt rác ra đường hoặc nơi công cộng . Ăn xong một que lem hay một chiếc kẹo , người ta vứt que, vứt giấy xuống đất . Uống xong một lon nước ngọt hay một chai nước suối , vứt lon , vứt chai ngay tại chỗ vừa ngồi mặc dù thùng rác để cách đó rất gần . Tuy vậy , họ vẫn thản nhiên , vô tư không có gì áy náy . Thậm chí khi ăn xong một tép kẹo cao su, họ cũng không mang đến thùng rác mà vo tròn rồi trét lên ghế đá và cứ thế bỏ đi chỗ khác . Không chỉ với những nơi công cộng , ở một số khu phố , con đường có đặt bảng khu phố văn hóa nhưng cỏ mọc um tùm tràn lan , rác rưởi ngập đầy khắp lối đi , mùi hôi khó chịu bốc lên suốt ngày . Một biểu hiện phổ biến khác là một số tài xế chở gạch,đá phế thải ở các công trinh xây dựng đem đổ khắp nơi và cả trên dưới phố. Con người ta còn vô ý thức đến mức mang xác súc vật chết như chó, mèo, chuột, gia cầm như gà, vịt ném xuống hồ ,ao...

Words: 4030 - Pages: 17

Free Essay

Hgjhgjhghj

...Tương ái hảo bất hảo (Hiện đại phúc hắc cường công – ôn nhuận nhược thụ nam nam sinh tử) Tác giả: Trang Sinh Hiểu Mộng Người dịch: QT ka ka Edit: Hoàng Tịch Vân Beta: Zi (Na) + Bê ta xì táp bí ẩn xến xúa và ưa dỗi dẽo - Văn án - *V* Ai đó nói cho ta biết rốt cuộc chuyện gì xảy ra thế này? Tình nhân trước đây của ta rõ ràng là đàn ông, sao lại mang thai được? Chẳng hiểu gì mà trở thành bố, còn chưa kịp cảm nhận hạnh phúc được làm bố đã bị “cha” của con mình tuyên bố, cha con ta phải cắt đứt quan hệ phụ tử. Gì ~ ta hình như có điểm thích cậu ta thì phải~ Trốn tránh không phải phong cách của người nhà họ Đường. Ta nên chuẩn bị kế hoạch tốt một chút, làm thế nào để cậu ấy cùng con trai quay trở về bên mình… Nhân vật chính: Đường Thiên, Thẩm An Hoa. Nhân vật phụ: Lam Quy Dương, Doãn Tích Nhiên. Thể loại: đam mỹ, sinh tử, sản nhũ. *** - Tiết tử - Bệnh viện phụ sản. Lam Quy Dương ngồi bên cạnh giường bệnh, vừa gọt vỏ táo vừa nói hỏi người bạn thân đang nằm trên giường: “An Hoa, cậu thực sự không nói chuyện này cho anh ta sao?” Thẩm An Hoa lúc này đang dịu dàng xoa xoa cái bụng đã đủ tháng đủ ngày của mình, khóe miệng mang nụ cười nhè nhẹ, nghe được lời ấy, trong mắt không khỏi lộ ra một tia trào phúng: “Nói cái gì đây, cũng chẳng có cái gì hay mà nói đâu. Mình trước đây nói với anh ta nhiều như vậy, anh ta cũng không thèm nghe. Hiện tại nói thêm, cũng có ích gì. Mình...

Words: 60471 - Pages: 242

Free Essay

Marketing

...Hoạt động của kênh phân phối: Một kênh phân phối là một sự liện kết các cơ sở khác nhau lại vì lợi ích chung. Mỗi thành viên trong đường dây đều dựa vào những thành viên khác. Các nhà phân phối xe Ford dựa vào công ty Ford để có được những chiếc xe thiết kế và chế tạo tốt, đáp ứng được nhu cầu của khách. Công ty Ford thì lại dựa vào các nhà phân phối để thu hút khách hàng, thuyết phục họ mua xe Ford và cung cấp các dịch vụ sau khi họ đã mua. Sự thành công của mỗi nhà phân phối xe Ford cũng phụ thuộc vào việc toàn bộ đường dây của hãng có cạnh tranh giỏi với đường dây của các hãng xe hơi khác không? Mỗi thành viên trong đường dây giữ một vai trò riêng và chuyên thực hiện một hay nhiều chức năng. Vai trò của hãng IBM là sản xuất ra những máy tính cá nhân hấp dẫn khách hàng và tạo ra sức cầu qua quảng cáo rộng rãi toàn quốc. Vai trò của cửa hàng chuyên doanh máy tính là trưng bày máy tại những vị trí thuận lợi, trả lời thắc mắc của khách hàng muốn mua, ký kết thương vụ và cung cấp dịch vụ cho khách. Đường dây sẽ có hiệu quả nhất khi từng thành viên được giao nhiệm vụ mà họ có thể làm tốt nhất. Vì sự thành công của các cá nhân thành viên tuỳ thuộc vào thành công của cả đường dây, nên mọi cơ sở trong đường dây đều phải hiểu vào chấp nhận phần việc riêng của mình, phối hợp mục tiêu và hoạt động của mình với mục tiêu và hoạt động của các thành viên khác và phối hợp để hoàn thành mục tiêu của đường dây. Bằng sự hợp tác, họ có thể nắm bắt, cung ứng và thỏa mãn thị trường mục tiêu tốt...

Words: 541 - Pages: 3

Free Essay

Hoa Sen

...con người Việt Nam tượng trưng cho sự thánh thiện, thanh khiết, và hoàn toàn thoát tục, luôn cố gắng vươn lên để đến được nơi tươi sáng nhất giống như con người Việt Nam. [RIGHT]Trích từ: www.VanMau.Com[/RIGHT] [RIGHT]Trích từ: www.VanMau.Com[/RIGHT] [RIGHT]Trích từ: www.VanMau.Com[/RIGHT] Không phải ngẫu nhiên mà hoa sen được ví von như thế. Hoa sen là một lọai hoa thanh khiết và có truyền thống lâu đời nhất ở phương Đông. Đây là một lòai thực vật sống dưới nước có nguồn gốc Á Châu và chiếm giữ một vị trí cổ xưa trong tất cả nền văn hóa đặc biệt của phật giáo . Những cánh, nhụy và gương hạt đã cấu thành một bông hoa sen có nét đẹp thanh thóat và màu tươi sáng. Sen được đỡ bằng một cuống hoa dài và đưa sen mọc khỏi trên mặt nước. Lá sen rất xanh có một lớp nhung trắng phủ trên bề mặt khi ánh náng chiếu vào làm lớp nhung trắng đó óng ánh li ti mơ ảo rất đẹp. Gương hạt sen là một cảm hứng cho các nhà nghệ sĩ và những người thợ thủ công sáng tạo những tác phẩm kỳ diệu của mình. Hoa sen mọc trong bùn, sống trong bùn nhưng vượt lên khỏi nó để hướng đến mặt trời mà không hề bị bùn làm ô nhiễm, vấy bẩn. Cũng giống như một người được sinh ra trên thế giới, tồn tại giữa cuộc đời nhưng đã vượt thoát khỏi sự tham lam, sâu hận, dục vọng và không bị vấy bẩn, ô nhiễm bởi dòng đời. [RIGHT]Trích từ: www.VanMau.Com[/RIGHT] [RIGHT]Trích từ: www.VanMau.Com[/RIGHT] Ở Việt Nam, sen được xếp vào bộ tứ quý ( 4 mùa): Lan, sen, cúc, mai và xếp vào hàng “tứ quân tử” cùng tùng, trúc, cúc. Hoa sen rất...

Words: 2845 - Pages: 12

Free Essay

Tran Hung Dao

...1212010092 | TP.HCM, tháng 10 năm 2014 MỤC LỤC 1. Sơ lược tiểu sử Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn 2 2. Những yếu tố ảnh hưởng đến nghệ thuật lãnh đạo của Trần Hưng Đạo 2 3. Phân tích, đánh giá nghệ thuật lãnh đạo của Trần Hưng Đạo 2 4. Bài học rút ra cho các bạn sinh viên 2 1. Sơ lược tiểu sử Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn Trần Quốc Tuấn, sinh ngày 10 tháng Chạp năm Mậu Tý (1228). Ông là con thứ 2 của Khâm Minh Đại Vương Trần Liễu, mẹ là Đoan Túc. Quê Ông ở làng Tức Mặc, xã Lộc Vượng, ngoại thành Nam Định. Viết về sự khai nguyên của dòng dõi nhà Trần, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên chép rằng :"Có người tên Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá". Như vậy Trần Thừa là ông nội của Trần Quốc Tuấn, và Trần Cảnh tức là vua Trần Thái Tông là chú ruột của Người. Trần Quốc Tuấn ra đời trong thời kỳ đầu của vương triều nhà Trần mở nghiệp. Từ nhỏ ông đã có năng khiếu về văn chương và võ lược. Được giáo dục và rèn luyện...

Words: 5855 - Pages: 24

Free Essay

Mnvbnbvn

...THI HỌC KÌ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 1. ------------------------------------------------- Cơ sở hình thành TTHCM. * Cơ sở khách quan hình thành TTHCM. a. Bối cảnh lịch sử hình thành TTHCM: * Bối cảnh Việt Nam: * XHVN cuối TK 19 đầu TK 20: * Chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động … không cho VN cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của TG. Không phát huy đc những thế mạnh của dân tộc và đất nước, chống lại âm mưu xâm lược của CNTD phương Tây. * Khi TD Pháp xâm lược VN (1858), XHVN trở thành XH thuộc địa nửa phong kiến, xuất hiện 2 mâu thuẫn cơ bản: + Toàn thể dân tộc VN >< TD Pháp và tay sai PK ( >< dân tộc ). + Toàn dân VN >< địa chủ PK ( >< giai cấp ). * Nhiều phong trào yêu nước của NDVN đã nổi dậy nhưng đều bị thất bại … như sự thất bại của phong trào Cần Vương theo hệ TTPK, phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục theo hệ TTTS đã giúp NAQ nhận rõ chỗ hạn chế của phong trào đó chưa biết tổ chức, chưa có tổ chức. Thúc đẩy NAQ ra đi tìm đường cứu nước mới của NDVN. * Bối cảnh quốc tế: * CNTB trở thành CNĐQ, CNTB xác lập sự thống trị trên phạm vi TG. Lúc này không chỉ dừng lại ở sự áp bức giai cấp trong chính quốc mà đã mở rộng ra sự áp bức đối với các dân tộc khác. Vì thế, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không chỉ còn là hành động riêng lẻ nữa mà trở thành cuộc đấu tranh chung của dân tộc thuộc địa chống ĐQ. * Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cuộc đấu...

Words: 6423 - Pages: 26

Free Essay

Group 1-6a-Org 6130 Chinh Bo Sung

...BÀI TẬP NHÓM NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG “NHÀ MÁY GƯƠNG Ô TÔ ENGSTROM” Môn : ORG 6130 – Hành vi tổ chức PHẦN I - GIỚI THIỆU CHUNG Đây là bài tập nhóm của nhóm 1 – lớp MBA 6A tổ chức bởi CDS và CMU tại Việt Nam (Sau đây gọi tắt là Nhóm 1 - MBA6A – VN). Bố cục bài viết của chúng tôi gồm các phần sau: 1. Giới thiệu các thành viên trong nhóm. 2. Tóm tắt & phân tích tình huống. 3. Các vấn đề yêu cầu giải quyết (Trả lời câu hỏi). 4. Kết luận. Nhóm 1 - MBA6A - VN bao gồm 9 thành viên (xếp theo bảng chữ cái) như sau: 1. Lê Hoàng Anh. 2. Nguyễn Vân Anh. 3. Phạm Tuấn Anh. 4. Trịnh Mai Anh. 5. Lý Quốc Chính. 6. Đào Phong Trúc Đại. 7. Hoàng Minh Đạo. 8. Nguyễn Đức Doanh. 9. Lưu Chí Huy (Liu Zhi Hui). PHẦN III – TRẢ LỜI CÂU HỎI 1. Hãy xác định các vấn đề chính của Engstrom, và sau đó xác định các đóng góp chủ yếu về lý thuyết mà kế hoạch Scanlon có thể mang lại cho một công ty. Liệu Scanlon có phải là giải pháp tốt cho các thách thức của Engstrom? a. Các vấn đề chính Engstrom hiện đang gặp phải - Bên trong: • Một cuộc khủng hoảng tại nhà máy với các vấn đề về năng suất, hiệu suất làm việc của công nhân. • Cùng với vấn đề về năng suất, những vấn đề về chất lượng sản phẩm cũng đã len lỏi vào hoạt động của Engstrom • Những than phiền, bất mãn, nghi ngờ của nhân viên về kế hoạch Scanlon, một kế hoạch đã được áp dụng trong thời gian dài nhưng chưa có sự thay...

Words: 1946 - Pages: 8

Free Essay

Tổng Quan Fpt

...giấy phép ICP, ISP, OSP, IXP, giấy phép thiết lập mạng và Cung cấp dịch vụ Viễn thông. ĐIỂM NỔI BẬT Khởi đầu với mạng Trí tuệ Việt Nam năm 1997 chỉ với 4 người, cho đến nay FPT Telecom đã có đội ngũ nhân viên hơn 1,100 người tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Họ đều là những nhân viên trẻ, năng động, có trình độ cao, nhiệt tình và sáng tạo. Nhiều cán bộ của FPT Telecom đã giành được những chứng chỉ quốc tế CCNA, CCNP, CCIE về mạng của CISCO, các chứng chỉ quốc tế về các thế hệ máy chủ MINI RS/6000, AS/400, SUN,HP… Bên cạnh đó, FPT luôn được sự hỗ trợ của các công ty hàng đầu thế giới trong lĩnh vực công nghệ thông tin, có những đối tác kinh doanh, đối tác chiến lược. Tất cả các yếu tố kể trên đã góp phần tạo nên uy tín và hình ảnh của công ty FPT Telecom tại Việt Nam. CÁC DỊCH VỤ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN VIỄN THÔNG FPT Bắt đầu cung cấp dịch vụ Internet từ năm 1999, Công ty cổ phần Viễn thông FPT (FPT Telecom) đã được chính phủ Việt Nam cấp giấy phép IXP 4/2002 (Nhà cung cấp dịch vụ cổng kết nối Internet) - giấy phép cao nhất tại Việt Nam cho...

Words: 3818 - Pages: 16

Free Essay

The Story of an Hour

...đình này. Nàng không nghe câu chuyện giống như nhữngngười đàn bà khác nghe cùng câu chuyện, bằng cái tê điếng sững sờ vàkhông chấp nhận tầm quan trọng của sự việc. Nàng khóc òa ngay lập tức,rồi thình lình, ngã nhào buông thả bất kể vào trong vòng tay chị mình.Khi cơn bão tang thương nguôi dần, nàng bỏ vào phòng một mình. Nhấtđịnh không cho ai đi theo. Đối diện cửa sổ là một cái ghế bànhkhá rộng và đầy tiện nghi. Nàng ngồi lún sâu vào ghế, như bị đè bẹp bởicơn kiệt sức đã ám ảnh cơ thể và dường như vói tận vào linh hồn củanàng. Nàng có thể nhìn thấy trong quảng sân rộng trước nhà lànhững ngọn cây đang run rẩy với cuộc sống mới của mùa xuân. Mưa nhẹ nhưhơi thở thật ngon lành trong không gian. Dưới đường phố, người bán rongđang rao hàng. Những nốt của một bản nhạc người nào đó đang hát từ xavọng đến tai nàng thật mơ hồ và tiếng ríu rít của bầy chim én dưới máihiên. Vài mảng trời xanh lấp ló sau màn mây chất chồng lên nhau hướng Tây đối diện với của sổ của nàng. Nàngngồi, đầu dựa ngửa lên thành của nệm ghế, hầu như bất động, trừ khi cótiếng nấc phát ra từ cổ họng và làm rúng động thân thể nàng, như mộtđứa bé khóc vùi cho đến khi rơi vào giấc ngủ và tiếp tục nức...

Words: 4396 - Pages: 18

Free Essay

Some Good Quetes

...giữ đêm khuya  Được quen em biết và yêu em Đó có phải là duyên hay số  Nhưng anh biết ngày mai dù bão tố Bên cạnh anh vẫn sẽ là em ! some people fell the rain,others just get wet Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim... Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để tình trang trải với trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời. Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm, cù bất cù bơ... Ngày vẫn nắng sao lòng lại đổ mưa Phố vẫn đông sao bàn chân lẻ bước Hai số phận , hai đường đi trái ngược Miệng mỉm cười sao lệ đổ hàng mi.... Vẫn còn đây, 1000 hạc giấy Thay lời yêu, em gấp tặng đôi mình Chỉ trách tình yêu, không như ước định Để suốt đời này, hạc giấy lặng thinh! Bảo nó là về nhà má nấu cho mấy món mà ăn kiểu gì con cũng thích: - Gà hầm sâm bà chỉm - Cá chà bu nướng muối ớt - Chim cú bặc tứ xuyên - Lẩu cá chà bặc và cao ông tù Bảo nó mấy món này phải nấu = lò tôn và dùng cồn lào mới thấy ngon  -Tráng miệng = món lặc cau.  Kiểu gì nó cũng thích má  1. Tháng trước vợ cho một triệu tiêu vặt, cuối tháng hỏi tiền tiêu những khoản nào rồi. Mua bộ đồ lót cho vợ hết 500k, mua cây thuốc lá cho bố vợ hết 200k, đổ xăng hết 150k, cắt tóc hết 50k, mua hai lon Coca hết 40k, còn 60k tiêu gì ko tài nào nhớ nổi. Vợ nghe thế liền nổi...

Words: 3006 - Pages: 13

Free Essay

The Last Leaf

...cửa sổ thông ra hướng bắc, góc mái kiểu thế kỷ 18, gác lửng kiểu Hà Lan, và giá thuê lại rẻ. Sau đấy họ mang vào vài lọ hợp kim thiếc, một hai cái chảo nấu ăn dã chiến, và thế là một “quần cư” thành hình. Hai cô Sue và Johnsy cùng thuê chung một căn phòng đơn giản ở tầng trên cùng của một toà nhà  ba tầng lụp xụp. “Johnsy” thực ra là tên thân mật của California. Họ đã gặp nhau tại một hiệu ăn trên đường Số Tám, và khám phá ra là họ có những sở thích tương đồng về nghệ thuật, rau diếp xoắn trộn dấm, và thời trang với tay áo giám mục. Thế là họ cùng thuê chung một căn phòng. Đấy là vào Tháng 5 . Vào tháng 11, có một kẻ ngoại nhập mang theo giá lạnh nhưng vô hình, mà các bác sĩ gọi là Viêm Phổi, rình rập trong “quần cư”, móng vuốt giá băng quệt vào đây đó. Tên giặc đã  ngang nhiên hoành hành khu phía đông, hạ gục nhiều nạn nhân, nhưng hắn chỉ mới đặt chân chầm  chậm qua các lối ngõ như bàn cờ của mấy “vùng” nhỏ hẹp phủ đầy rêu. Bạn sẽ không xem Thần Viêm Phổi như một quân tử già đầy hào hiệp. Người con gái nhỏ vốn đã mất máu vì những trận gió ở Califỏnia thì lẽ ra không đáng cho một kẻ bất tài già nua bận tâm đến.  Nhưng hắn đã tấn công Johnsy. Thế là cô nằm bẹp, không mấy cử động, trên chiếc giường sắt,  xuyên qua khung cửa sổ kiểu Hà Lan nhìn ra bức tường trơ trụi của căn...

Words: 2019 - Pages: 9

Free Essay

600 Câu Thành Ngữ, Tục Ngữ Trung – Việt Đối Chiếu

...600 câu thành ngữ, tục ngữ Trung – Việt đối chiếu 1 Anh em khinh trước, làng nước khinh sau 家火不起,野火不来 2 Áo gấm đi đêm 锦衣夜行 3 Ăn bát cơm dẻo, nhớ nẻo đường đi 食饭不忘种田人 4 Ăn bẩn sông sâu 不干不净、吃了长命 5 Ăn bơ làm biếng, hay ăn lười làm 好逸恶劳 6 Ăn cám trả vàng 吃人一口, 报人一斗;吃人糠皮, 报人黄金 7 Ăn cây táo rào cây sung (cây xoan ) 吃力扒外 8 Ăn có nhai, nói có nghĩ 食须细嚼、言必三思 9 Ăn cơm chúa, múa tối ngày 饱食终日、无所事事 10 Ăn cơm gà gáy, cất binh nửa ngày 鸡啼饱饭、三竿出兵;起个大早、赶个晚集 11 Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng 吃一家饭、管万家事 12 Ăn cháo đá bát, qua cầu rút ván 过河拆桥 13 Ăn chẳng có khó đến thân 好事无缘,坏事有分 14 Ăn chọn nơi, chơi chọn bạn 择善而从 15 Ăn độc chốc mép 独食独生疮 16 Ăn không nên đọi, nói chẳng nên lời 笨口拙舌 17 Ăn mày đòi xôi gấc (ăn trực đòi bánh chưng) 乞丐讨肉粽 18 Ăn miếng trả miếng 以眼还眼、以牙还牙 19 Ăn một bát cháo, chạy ba quãng đồng 吃一碗粥、走三里路 20 Ăn ngay nói thật mọi tật mọi lành 天理良心、到处通行 21 Ăn nhạt mới biết thương mèo 落魄方知穷人苦 22 Ăn ốc nói mò; nhắm mắt nói mò 瞎说八道;向壁虚造 23 Ăn quả nhớ kẻ trồng cây 食果不忘种树人 24 Ăn quàng nói bậy, ăn nói lung tung 信口开河 ;信口雌黄; 胡说八道 25 Ăn vụng đổ vạ cho mèo, vu oan giá họa 屈打成招 26 Ăn xổi ở thì , mổ gà lấy trứng 杀鸡取卵;杀鸡取蛋 27 Ba bà chín chuyện; tam sao thất bản 话经三张嘴,长虫也长腿 28 Bà con xa không bằng láng giềng gần 远亲不如近邻 29 Ba đầu sáu tay 三头六臂 30 Ba mặt một lời 三头对案; 三面一词 31 Ba mươi chưa phải là tết 别言之过早 32 Bán trôn nuôi miệng 皮肉生涯 33 Bát nước đổ đi khó lấy lại 覆水难收 34 Bắn đại bác cũng không tới 八竿子打不着 35 Bằng mặt không bằng lòng 貌合神离 36 Bắt cá hai tay 双手抓鱼 37 Bắt...

Words: 5240 - Pages: 21

Free Essay

Tieu Tuy Dong Phong

...Chương 1 Cây già bám những dây khô, Quạ bay về đậu nhấp nhô bóng chiều. Nhà ai nước chảy ven cầu, Gió thu, ngựa ốm về đâu đêm rừng. Phương tây chiều xuống bâng khuâng, Thân du tử mãi lưng chừng chân mây. (1) Nơi đây không có cây già bám những dây khô, cũng không có nước chảy ven cầu mà chỉ thấy thấp thoáng núi đồi xa xăm, giữa rừng cây trùng điệp là một con đường thênh thang xuyên suốt từ nam chí bắc. Khi chiều tà đã buông xuống phương tây, con đường lại thêm phần vắng lặng, duy chỉ một người một ngựa thong thả mà đi. Con ngựa vốn là một con tuấn mã, toàn thân trắng tuyết. Người trên lưng ngựa toàn thân vận y sam nguyệt sắc, niên kỷ không quá độ đôi mươi. Y trông như không vội lên đường gì, đầu hơi cúi thoáng mang tâm sự. Bốn bề một vùng tĩnh lặng, chỉ có tiếng vó ngựa đơn điệu khua từng nhịp đều, càng làm dậy thêm không khí u trầm tịch mịch. Vừa hay sự yên ả đã nhanh chóng bị phá vỡ: một hồi vó câu cấp bách vọng lại từ xa, cuối đường có hai thân ảnh dần dần hiện lên. Trên con ngựa chạy trước là một trung niên tướng mạo đẫy đà vận y sam đỏ thẫm, khuôn mặt hồng hào tựa như một vị đại tài chủ. Giống như muốn cùng người đẫy đà kia hợp thành một cặp thú vị, trên con ngựa theo sau là một người gầy gò, thân hình lêu khêu, đằng xa nhìn lại trông giống hệt thân tre. Hắn mặc một bộ y phục màu xanh nhạt, dù không chói mắt như người mập mạp kia nhưng được cắt may rất vừa vặn tinh xảo, hiển nhiên chủ nhân cũng là người có thân thế. Lúc hai con ngựa đuổi kịp người thanh niên thì...

Words: 90621 - Pages: 363