Free Essay

Docgkkỵhvj

In:

Submitted By 25251325
Words 8613
Pages 35
CÔNG VỤ CÔNG CHỨC
I.QUAN NIỆM CHUNG VỀ CÔNG VỤ VÀ NỀN CÔNG VỤ
1. Công vụ
Công vụ là thuật ngữ được trình bày từ nhiều góc độ khác nhau.
- Công vụ là hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước.
- Công vụ là một hệ thống bao gồm tất cả hoạt động của những người lao động mang tính dân sự trong các cơ quan nhà nước và được bổ nhiệm dựa trên năng lực, không phải dựa vào sự liên kết chính trị.
- Công vụ theo từ điểm Oxford, được hiểu là toàn bộ các cơ quan của Chính phủ không kể lực lượng quân đội hoặc công vụ sử dụng để chỉ một nhóm người làm việc trong các cơ quan nhà nước ( dân sự).
- Công vụ là hoạt động đem lại quyền lợi ích chung cho mọi người. Điều này cũng có thể thấy: công vụ (thuật ngữ) càng gắn với khái niệm dịch vụ công, khu vực công, hành chính công.

- Công vụ là một loại lao động (hoạt động) đặc biệt thực hiện chức năng quản lý nhà nước, thi hành pháp luật , sử dụng có hiệu quả nguồn lực công ( công sản, ngân sách ) nhằm đáp ứng mục tiêu của Nhà nước (chính trị) đã đề ra trong giai đoạn phát triển .Tuy nhiên, công vụ thường hiểu theo nghĩa các hoạt động, cụ thể hơn là cơ cấu.

- Công vụ gắn liền trực tiếp với con người là công chức. Công vụ bao gồm toàn bộ những người được Nhà nướọng đồng lãnh thổ bổ nhiệm vào một công việc thường xuyên trong một trong một công sở hay một thực thể công và được xếp vào một trong những ngạch của nền hành chính.

Trong một số tài liệu đang sử dụng ở nước ta, thuật ngữ công vụ được hiểu là: - Công vụ là hoạt động của các tổ chức, cơ quan nhà nước nhằm thực hiện ý chí của nhân dân. - Công vụ là quy chế, nguyên tắc hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm thực hiện các chức năng quản lý xã hội theo mục tiêu đã vạch ra. - Công vụ là hoạt động thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. - Công vụ là hoạt động thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. - Công vụ bao gồm toàn bộ các hoạt động của tính quyền lực công, tính pháp lý của công chức. Trên cơ sở các quan niệm trên, có thể hiểu: “Công vụ là hoạt động mang tính quyền lực công, tính pháp lý của tất cả các công chức ( người làm công cho Nhà nước) nhằm bảo đảm cho xã hội vận hành có điều hòa, điều chỉnh”. Hoạt động công vụ có chứa đựng các dấu hiệu: -Chỉ đạo của Nhà nước thông qua pháp luật; -Do người làm công cho Nhà nước thực hiện; -Sử dụng quyền lực công khi tiến hành; -Mang tính pháp lý; -Phục vụ lợi ích chung; -Do Nhà nước trả công ( lương, phụ cấp). Những tiêu chí đó nhằm phân biệt một số hoạt động của một số tổ chức mang tính xã hội, không phải công vụ. Ở một số nước, công vụ mang tính thường xuyên của các cơ quan hành chính nhà nước nhằm đảm bảo cho một hoạt động quản lý nhà nước được thực hiện. Trong một thể chế nhà nước nhất định, có 3 nhóm hoạt động sau: +Hoạt động của các cơ quan lập pháp;
+ Hoạt động của các cơ quan tư pháp ;
+ Hoạt động hành pháp, thực thi và làm cho có hiệu lực của hệ thống pháp luật. Trong Nhà nước phong kiến, có:
+ Vua (với đội ngũ tư vấn) đề ra phép nước ;
+ Quan, nha, tôi triển khai thực hiện ;
+ Hệ thống xét xử của vua ;
Trong Nhà nước tam quyền phân lập (cứng rắn, mềm dẻo hoặc kết hợp) có :
+ Hệ thống lập pháp thông qua thể chế ;
+ Hệ thống hành pháp thực thi pháp luật, hành pháp hành động ;
+ Hệ thống toà án xét xử. Trong Nhà nước quyền lực thống nhất, có phân công, phối hợp các quyền có
+ Cơ quan quyền lực nhà nước (được nhân dân trao quyền) xây dựng hệ thống pháp luật
+ Cơ quan hành pháp thực hiện hoạt động hành chính, quản lý (hành pháp hành động) ;
+ Toà án xét xử.
Các nhóm hoạt động đó thông thường không hoàn toàn gắn liền với đội ngũ công chức, mà do các dòng tộc kế thừa, các nhà chính trị hoặc có thể do công chức đảm nhận. Do đó, nếu theo mọt số định nghĩa nêu trên, một số trong các hoạt động đó không thuộc khái niệm công vụ. Thông thường công vụ chỉ được xem xét gắn liền với các cơ quan hành chính nhà nước ( thực thi pháp luật).
2. Nền công vụ
Thuật ngữ nền công vụ (the Civil Service) được sử dụng khá phổ biến trong nhiều tài liệu. Tuy nhiên, không tránh khỏi sự nhầm lẫn giữa công vụ và nền công vụ.
Nếu như công vụ dùng để chỉ các hoạt động cụ thể thực thi quyền lực quản lý hành chính nhà nước, thì “nền công vụ” mang ý nghĩa của hệ thống, nghĩa là nó chứa đựng bên trong nó tất cả công vụ và các điều kiện (quyền lực pháp lý) để cho công vụ được tiến hành. Từ nghiên cứu thực tiễn, nền công vụ gồm :
-Hệ thống pháp luật quy định các hoạt động của các cơ quan thực thi công vụ (cơ quan thực thi quyền hành pháp, quyền quản lý nhà nước). Hệ thống này bao gồm Hiến pháp, các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan quyền lực nhà nước có thẩm quyền ban hành.
-Hệ thống các quy chế quy định cách thức tiến hành các hoạt động công vụ do Chính phủ hoặc cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành, tạo thành hệ thống thủ tục hành chính, quy tắc quy định các điều kiện.
-Công chức, với tư cách là những chủ thể thực sự tiến hành các công vụ cụ thể. Đây là hạt nhân của nền công vụ và cũng chính là yếu tố đảm bảo cho nền công vụ hiệu lực, hiệu quả.
-Công sở là nơi tổ chức tiến hành các công vụ. Công sở cần phải bảo đảm các điều kiện cần thiết để nhân dân được tiếp cận với công vụ thuận tiện khi tiến hành công vụ. Hiện nay, những điều kiện vật chất cần thiết để tiến hành công vụ theo xu thế hiện đại (bên cạnh công chức hiện đại) cần được quan tâm.
Xét trên tổng thể chung, nền công vụ không chỉ bị điều chỉnh bởi các văn bản mang tính luật ( Hiến pháp, luật) mà còn mang tính pháp quy của Chính phủ. Cải cách nền công vụ, không chỉ tập trung vào hệ thống pháp quy ( thủ tục hành chính) mà còn phải quan tâm đến hệ thống văn bản pháp luật nói chung bao gồm cả Hiến pháp, luật. Hoạt động của nền công vụ và người công chức không chỉ bị chế định bởi hệ thống luật chung (luật lao động) mà còn bị chế định bởi chính những quy phạm pháp luật cho riêng nó mà không ai có (cấm không được làm).
3.Một số đặc trưng cơ bản của công vụ
Đặc trưng của một số hoạt động thường được xác định dựa trên nhiều tiêu chí. Hệ thống các tiêu chí đó phản ánh: mục tiêu của hoạt động; nguồn lực cần cho hoạt động (bao gồm cả quyền lực, nguồn tài chính, vật chất); phương thức tiến hành các hoạt động đó.
Mục tiêu của hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp là lợi nhuận; họ sử dụng quyền lực kinh tế của mình, nguồn tài chính, vật chất để tiến hành các hoạt động kinh doanh theo nhiều cách thức khác nhau, nhằm đi đến mục tiêu đó. Kể cả khi doanh nghiệp hoạt động công ích do Nhà nước thành lập khi nó vẫn nhằm lợi nhuận trong sử dụng hiệu quả nguồn lực được giao. Khác với kinh doanh, nền công vụ là phục vụ nhân dân; đáp ứng đòi hỏi chính đáng của nhân dân, của tổ chức. Công vụ là một loại hoạt động đặc biệt, do đó có những nét đặc trưng riêng được thực hiện như sau:
-Mục tiêu:
+Phục vụ nhà nước.
+Phục vụ nhân dân.
+Không có mục đích riêng của mình.
+Xã hội hóa cao vì phục vụ nhiều người.
+Duy tri an ninh, an toàn trật tự xã hội.
+Tăng trưởng và phát triển.
+Không vì lợi nhuận.

-Nguồn lực:
+Quyền lực nhà nước trao cho, có tính pháp lý.
+Sử dụng nguồn ngân sách nhà nước hay quỹ công để hoạt động.
+Do công chức là người làm cho nhà nước thực hiện.

-Cách thức tiến hành:
+Hướng đến mục tiêu.
+Hệ thống thứ bậc, phân công, phân cấp.
+Thủ tục quy định trước.
+Công khai.
+Bình đẳng.
+Không thiên vị.
+Có sự tham gia của nhân dân.

Một số nước, có sự phân chia cộng vụ theo hệ thống thứ bậc và công việc:
-Công vụ mang tính quản lý hành chính và mang tính sự nghiệp ( dịch vụ công);
-Công vụ thực thi bởi công chức hành chính nhà nước (Trung ương);
-Công vụ thực thi bởi công chức thuộc các cộng đồng lãnh thổ (mang tính tự quản);
-Công vụ thực thi bởi các tổ chức sự nghiệp ( bệnh viên, trường học ).
Ở nước ta, khái niệm công vụ tương đối rộng. Do đó, khi nghiên cứu các đặc trưng công vụ cần chú ý để làm rỏ các đặc trưng cho từng nhóm.

II. NGUYÊN TẮC VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤ
Đối tượng của công vụ là công dân, nhằm buộc công dân phải tuân thủ theo quy định và phục vụ công dân. Như vậy mối quan hệ giữa công vụ và công dân thông thường mang tính một chiều, tính chất của luật công. Tính chất một chiều đó của luật công cũng có thể hiểu là Nhà nước thực thi công vụ vì lợi ích quốc gia, lợi ích công không có sự bình đẳng của các chủ thể tham gia quan hệ như trong luật tư -dân luật.
Trong xu thế dân chủ, mở rộng sự tham gia của công dân vào các hoạt động quản lý nhà nước, xã hội đòi hỏi Nhà nước phục vụ xã hội nhiều hơn và tốt hơn, đòi hỏi Nhà nước phải tôn trọng nhiều cam kết hơn trong tiến trình phục vụ xã hội.
1.Một số nguyên tắc cơ bản của hoạt động công vụ
- Nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
- Nguyên tắc lập quy dưới luật.
- Nguyên tắc đúng thẩm quyền, chỉ được phép thực hiện trong phạm vi công vụ ( chỉ được làm những gì pháp luật cho phép).
- Nguyên tắc chịu trách nhiệm.
- Nguyên tắc thống nhất vì lợi ích công.
- Nguyên tắc công khai.
- Nguyên tắc liên tục, kế thừa.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ.
2.Một số quy định mang tính định hướng cho công vụ
• Hệ thống văn bản pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền của các cơ quan thực thi công vụ gồm: Hiến pháp ; luật ; các văn bản pháp quy ; các quy chế nội bộ cơ quan.
• Các quy định về tính chất hành vi của công vụ gồm : hợp pháp ; hợp lý ; mang tính nhân đạo, nhân văn.
• Hệ thống thủ tục hành chính quy định cách thức, phương thức tiến hành công vụ trên các lĩnh vực với mục tiêu : đơn giản ; dễ hiểu ; dễ thực hiện ; thống nhất ; khoa học.
• Quy định trách nhiệm khi có sai lầm (vi phạm tính hợp pháp, tính hợp lý) của công vụ :
-Sai lầm do cơ quan thực thi công vụ thể hiện ở việc ban hành các quyết định quản lý không hợp pháp và không hợp lý.
-Trong các trường hợp này thì căn cứ vào các văn bản pháp luật quy định hình thức xử lý sai phạm của các cơ quan thực thi công vụ để giải quyết.
-Sai lầm do lỗi của người thực thi công vụ là sai lầm trong thực hiện hành vi hành chính do các nguyên nhân khác nhau có thể dẫn đến sai lầm. Phân tích và chỉ ra các nguyên nhân đó có ý nghĩa rất quan trọng công việc hoàn thiện hoạt động công vụ. Có thể chỉ ra các nguyên nhân: kỷ luật, kỷ cương; năng lực; tác động của môi trường; những thủ tục quy định kém hiệu lực.
III. CÔNG CHỨC VÀ CÁCH PHÂN LOẠI CÔNG CHỨC
Số lượng người làm việc trong tổ chức Nhà nước khá lớn, bao gồm nhiều dạng làm việc khác nhau:
-Trong cơ quan nhà nước ( lập pháp, hành pháp , tư pháp );
-Trong lực lượng vũ trang, cảnh sát;
-Trong tổ chức kinh tế nhà nước;
-Trong tổ chức sự nghiệp của Nhà nước (bệnh viện, trường học,…)
-Trong tổ chức khác do Nhà nước thành lập.

Ở nước ta hiện nay, những người thực hiện việc công bao gồm cả:
-Làm việc trong các cơ quan tổ chức Đảng từ cấp Trung ương đến cơ sở;
-Làm việc trong các cơ quan tổ chức của Mặt trân Tổ quốc Việt Nam;
-Làm việc trong các cơ quan tổ chức của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
-Làm việc trong các cơ quan tổ chức của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
-Làm việc trong các cơ quan tổ chức của Hội Cựu chiến binh;
-Làm việc trong các cơ quan tổ chức của Hội Nông dân Việt Nam;

Những người làm việc cho Nhà nước là họ được Nhà nước “ trả công” từ ngân sách nhà nước dưới hình thức:
-Lương;
-Phụ cấp và sinh hoạt phí.

Tiền lương, phụ cấp sinh hoạt phí được Nhà nước quy định, không cố sự mặc cả trao đổi.
Đội ngũ những người làm cho Nhà nước chiếm tỷ lệ đáng kể trong lực lượng lao động. Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung trước đây, người làm cho Nhà nước chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động xã hội.

2. Công chức
Công vụ bao gồm tất cả các hoạt động do công chức thực hiện. Nhưng thực tế, thuật ngữ công chức cũng không được định nghĩa một cách thống nhất. Câu hỏi: Ai là công chức luôn được đặt ra cho các nền hành chính, nền công vụ và các cuộc cải cách nền hành chính. Có thể nói chưa có một cách tiếp cận chung nhất về thuật ngữ này. Ai là công chức thường do các yếu tố sau quyết định:
-Hệ thống thể chế chính trị;
-Hệ thống thể chế hành chính;
-Tính truyền thống;
-Sự phát triển kinh tế- xã hội;
-Các yếu tố văn hóa.

Trong một số tài liệu tham khảo, thuật ngữ công chức được hiểu khác nhau. Một số cách tiếp cận phổ biến là:
-Công chức là người làm việc thường xuyên trong bộ máy hành chính nhà nước. Quan niệm này nhằm để phân biệt những người làm cho Nhà nước trong các tổ chức, cơ quan khác của Nhà nước bằng tính thường xuyên của công vụ. Tuy nhiên, trong đó không đề cập đến điều kiện gì đẫ tạo cho họ là người làm thường xuyên.
- Công chức là người làm việc trong bộ máy nhà nước. Cách tiếp cận này mở rộng đối tượng làm việc cho Nhà nước không chỉ trong các cơ quan thực thi quyền hành pháp mà cả các cơ quan quyền lực khác như lập pháp, tư pháp. Đồng thời cũng bao gồm cả những người trong các lực lượng vũ trang, công an. Cách tiếp cận này không hạn chế cả những người làm việc thường xuyên, bầu cử cũng như những người làm công khác.
- Công chức là người đại diện cho Nhà nước để thực thi quyền hành pháp. Các tiếp cận này hạn chế nhóm người làm việc cho Nhà nước trong bộ máy hành pháp nhưng gắn liền với quyền lực hành pháp. Điều đó cũng có nghĩa là những người thực thi nhiệm vụ (tác nghiệp) các loại công vụ mang tính dịch vụ không thuộc công chức. Hay nói cách khác đi, công chức chỉ gồm những người có quyền đưa ra các quyết định quản lý hành chính nhà nước và triển khai thực hiện các quyết định đó.
- Cách tiếp cận gắn liền với công vụ cho rằng tất cả những ai thực thi công vụ đều được gọi là công chức. Ở mô hình công vụ theo việc làm, phân lớn các vị trí đều tìm để thuê và bổ nhiệm những người có năng lực, khả năng.
- Công chức là những người làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước được tuyển dụng thông qua hình thức thi tuyển và được phân vào một ngành, ngạch, bậc của nền công vụ và được Nhà nước trả công. Cách tiếp cận này cụ thể hơn và loại trừ những người làm việc thông qua bầu cử, cũng không tính đến những người làm việc có tính thường xuyên thông qua thi tuyển (như thẩm phán ).
Ở Việt Nam, qua các thời kỳ lịch sử, khái niệm ai là công chức cũng đã có nhiều lần thay đổi. Điều này đã được thể hiện trong các văn bản pháp luật của nhà nước ta.
Theo Sắc lệnh 76/SL, những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ở ngoài nước, đều là công chức theo Quy chế này, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính phủ định ( trích Điều 1, Sắc lệnh Số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950).
Nghị định 169/HĐBT quy định đối tượng và phạm vi áp dụng đối với công chức bao gồm:
1. Thuộc phạm vi công chức. a/ Những người làm việc trong các cơ quan hành chính Nhà nước ở Trung ương, ở các tỉnh, huyện và cấp tương đương. b/ Những người làm việc trong các Đại sứ quán, lãnh sự quán của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài. c/ Những người làm việc trong các trường học, bệnh viện, cơ quan nghiên cứu khoa học, cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của Nhà nước và nhận lương từ ngân sách. d/ Những nhân viên dân sự làm việc trong các cơ quan Bộ Quốc phòng.
e) Những người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong Bộ máy của các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát các cấp. g/ Những người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong bộ máy của văn phòng Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Nhân dân các cấp.
Những trường hợp riêng biệt khác do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quy định.
2. Không thuộc phạm vi công chức. a/ Các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. b/ Những người giữ các chức vụ trong các hệ thống lập pháp, hành pháp, tư pháp được Quốc hội hoặc Hội đồng Nhân dân các cấp bầu ra hoặc cử ra theo nhiệm kỳ. c/ Những hạ sĩ quan, sĩ quan tại ngũ trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, bộ đội biên phòng. d/ Những người làm việc theo chế độ tạm tuyển, hợp đồng và những người đang thời kỳ tập sự chưa được xếp vào ngạch. e/ Những người làm việc trong các tổ chức sản xuất, kinh doanh của Nhà nước. g/ Những người làm việc trong các cơ quan của Đảng và Đoàn thể nhân dân (có quy chế riêng của Đảng và Đoàn thể nhân dân)(trích Điều 2, Nghị định 169/HĐBT, ngày 25 tháng 5 năm 1991).
- Pháp lệnh Cán bộ, công chức ra đời đánh dấu một bước chuyển căn bản trong công tác cán bộ của nước ta. Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2003, cán bộ, công chức ở nước ta chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh Cán bộ, công chức (2003) bao gồm:
a)Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ( sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);
b)Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, huyện ( công chức);
c)Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc được giao giữ một công vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện (công chức);
d) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc được giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội;
đ) Thẩm phán tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;
e)Những người được tuyển dụng bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp (công chức).
g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dânl bí thư, phó bí thư đảng ủy; người đứng đầu tổ chức chính trị- xã hội, xã, phường, thị trấn ( sau đây gọi chung là xã);
h)Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân xã;
- Luật cán bộ, công chức bao gồm:
1.Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
3. Cách phân loại công chức
Công chức có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào mục đích của phân loại. Sự phân loại công chức cũng giống như sự phân loại cán bộ, công chức nói chung theo quy định của Pháp lệnh Cán bộ, công chức.
a)Phân loại công chức theo trình độ giáo dục, chuyên môn đào tạo
-Tốt nghiệp đại học, trên đại học.
-Tốt nghiệp trung cấp.
-Sơ cấp.
-Nghề.
-Không có nghề (tạp vụ).
Cách phân loại này chỉ nhằm giúp ta thấy tiềm năng của công chức, không gắn liền với công vụ, cũng không cho thấy tính thức bậc của công vụ.
b)Phân loại dựa vào hệ thống thứ bậc của nền công vụ.
Theo cách phân loại này, công chức được phân theo ngành (chuyên môn), ngạch (cấp bậc) và bậc (vị trí).
Ví dụ, ở nước ta ngành Hành chính được chia ra 11 ngạch. Trong mỗi ngạch chia ra 11 bậc ( đánh số từ 1 đến 11). Ngạch chuyên viên chính có 9 bậc (từ 1 đến 9). Từ sau khi có chính sách tiền lương mới, số lượng bậc trong một ngạch đã thu hẹp lại (xem Nghị định 204/2004/NĐ-CP về tiền lương của cán bộ, công chức cơ quan nhà nước).
Cách phân loại theo hệ thống cơ cấu tổ chức của nền hành chính có thể chia:
-Công chức làm việc ở cơ quan quản lý hành chính nhà nước Trung ương.
-Công chức làm việc ở cơ quan quản lý hành chính nhà nước cấp tỉnh.
-Công chức làm việc ở cơ quan quản lý hành chính nhà nước cấp huyện.
-Công chức làm việc ở cơ quan quản lý hành chính nhà nước cấp xã (ở nước ta, ở cấp xã chưa hình thành khái niệm công chức, song ở nhiều nước, công chức ở cấp chính quyền xã có nhiều ngạch bậc khác nhau ( cao, trung, sơ…) Điều này nhấn mạnh rằng không phải công chức ngạch bậc thấp phải làm việc ở cấp thấp trong thứ bậc của nền hành chính nhà nước).
Sự phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối, vì bản chất của hoạt động công vụ đòi hỏi phải bảo đảm tính thống nhât.
Những nước theo chế độ liên bang, công chức phân thành: công chức liên bang, bang và cộng đồng địa phương.
Một số nước (ví dụ Pháp), công chức chia ra thành 3 nhóm:
-Công chức trong ngạch hành chính nhà nước, trực thuộc cán bộ.
-Công chức thuộc cộng đồng lãnh thổ, các đơn vị chính quyền địa phương mang tính tự quản (phân quyền). Mọi hoạt động công vụ của họ chỉ giới hạn trên địa bàn lãnh thổ cộng đồng và chi phí đó cộng đồng chịu trách nhiệm.
-Công chức trực thuộc công sở tự quản, do Nhà nước thành lập, hỗ trợ tài chính, ngân sách, nhưng hoạt động dựa trên ngân sách riêng và sử dụng nó thông qua quyết định của hội đồng quản trị.
Trong nền công vụ theo việc làm, công chức được phân theo ngành nghề chuyên môn. Mỗi một ngành, khu vực sẽ được phân thành các nhóm công việc khác nhau và do nhiều người cùng đảm nhân. Tùy thuộc vào độ phức tạp của công việc, vị trí quản lý hay điều hành mà chia thành các loại, nhóm, ngạch.
IV. NGHĨA VỤ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1.Nghĩa vụ theo hợp đồng lao động và công vụ
Nghĩa vụ công chức khác với nghĩa vụ của người làm theo hợp đồng lao động với những thỏa thuận, cam kết phải đáp ứng của người làm thuê đối với người thuê.
Nghĩa vụ của công chức hay nghĩa vụ trong công vụ là những gì công chức phải tuân thủ và nghiêm chỉnh thực hiện. Đó cũng chính là trách nhiệm, bổn phận của công chức.
Như vậy, đặc trưng nghĩa vụ phụ thuộc vào mối quan hệ làm việc. Quan hệ lao động và quan hệ công vụ có nội dung nghĩa vụ khác nhau.
Nghĩa vụ có thể thay đổi nhưng luôn được Nhà nước, pháp luật bảo vệ.
2. Nghĩa vụ cán bộ, công chức ( điều bắt buộc)
Nghĩa vụ công chức trong thực hiện công vụ có một số điểm đáng chú ý:
- Nghĩa vụ được pháp luật quy định, bao gồm luật (pháp lệnh, sắc lệnh) quy định riêng về công vụ và nhiều văn bản pháp luật quy định các vấn đề liên quan đến công vụ (chống tham những, tiết kiệm; luật tố cáo, khiếu nại; luật xử phạt hành chính..). Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn, có thể có những quy định khác nhau liên quan đến nghĩa vụ công chức.
- Nghĩa vụ của cán bộ, công chức mang tính bắt buộc, mang tính đơn phương và tính phải thi hành. Nghĩa vụ này không đưa ra để tranh luận, đặt điều kiện khi tuyển dụng, sự vi phạm nghĩa vụ cũng phải được xử lý theo pháp luật, không thể tuỳ nghi. Đây cũng là vấn đề mà nhiều công chức chưa hiểu hết bản chất của nó nên cho rằng không ít vấn đề hình như đã can thiệp vào đời sống riêng, quyền cá nhân của họ.
- Nghĩa vụ công do đạo đức công vụ điều chỉnh: công chức phải trung thành, trung thực, không thiên vị, không dối trá, không tự ý hiểu sai nội dung nghĩa vụ, nội dung nhiệm vụ. Ở một số nước, công chức phải tuyên thệ lòng trung thành của mình với nền công vụ.
-Nghĩa vụ thực thi các hoạt động công vụ theo nguyên tắc hiệu lực, hiệu quả, năng suất, chất lượng. Những thuật ngữ: chống tham nhũng, lãng phí, làm dụng của công v.v… đều nhằm thể hiện tính năng suất, chất lượng của công việc.
-Nghĩa vụ mang tính tác phong thể hiện hình thức hành vi ứng xử của công chức.
-Nghĩa vụ có tính đặc biệt bắt buộc công chức nhằm hạn chế một số “quyền cơ bản” của công chức khi tham gia công vụ. Điều này do công cụ có những tính chất đặc biệt:
+Hoạt động của công chức liên quan đến việc sử dụng quyền lực.
+Hoạt động công vụ là bình đẳng đối với mọi công dân.
+Thông tin, sử dụng thông tin và giá trị kinh tế, chính trị của thông tin trong công vụ.
+Chủ nghĩa bè phái, thiên vị có thể làm cho việc thực thi công vụ không hiệu quả. Nếu bên đối tác (bị quản lý ) và người quản lý cùng một mục tiêu vì lợi ích riêng thì sẽ xâm phạm đến lợi ích quốc gia.
Ở nước ta, nghĩa vụ của cán bộ, công chức được quy định tại luật Cán bô, công chức bao gồm :
a.Nghĩa vụ của cán bộ, công chức đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân:
- Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia.
- Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân.
- Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân.
- Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. b.Nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ:
- Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
- Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước.
- Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao.
- Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. - Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
c.Nghĩa vụ của cán bộ, công chức là người đứng đầu Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
- Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức;
- Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;
-Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hóa công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân;
- Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân, tổ chức; -Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Những nghĩa vụ mà cán bộ công chức phải nghiêm chỉnh chấp hành cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát trong mấy chữ: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Đó là cơ sở để xác định cán bộ, công chức phải làm và không nên làm gì.
V.QUYỀN LỢI CỦA CÔNG CHỨC Quyền lợi của công chức trong nền công vụ được xác định dựa trên một số điểm : Thứ nhất : Được xác định bằng pháp luật. Mọi quyền lợi của công chức không chỉ được xác định trong các đạo luật chung cho người lao động (ví dụ luật lao động) mà còn được xác định trong hệ thống văn bản pháp luật riêng cho công chức. Có khá nhiều quyền lợi mà chỉ có công chức (người lao động làm việc cho Nhà nước) được hưởng mà các đối tượng khác không có đã làm cho nền công vụ vẫn tiếp tục hấp dẫn nhiều người muốn vào làm việc. Ví dụ: an ninh việc làm (đặc biệt hệ thống chức nghiệp); bảo hiểm y tế, nghỉ hè, lương hưu và nhiều lợi ích khác. Thứ hai : Quyền lợi của công chức được xác định trên cơ sở thống nhất, bình đẳng, công khai. Không có sự phân biệt sắc tộc, tôn giáo, giới tính, hoàn cảnh xuất thân (chính trị, kinh tế, vv…) khi năng lực của họ ngang nhau và được xếp vào các vị trí khác nhau. Thứ ba: Quyền lợi của công chức là những gì công chức được nhận từ Nhà nước và đó chính là nghĩa vụ mà Nhà nước phải thi hành. Nếu là sự hứa hẹn, cam kết của các chiến dịch vận động tranh cử nhằm tạo niềm tin cho cử tri, thì điều đó phải biến thành đạo luật. Và chỉ khi đã thành văn bản pháp luật, nó mới trở thành nghĩa vụ Nhà nước. Quyền lợi của công chức có thể chia ra nhiều nhóm khác nhau. Việc phân chia này mang tính tương đối và chỉ ra được sự quan tâm của Nhà nước đối với công chức: - Các quyền lợi về mặt vật chất; - Các quyền lợi về tinh thần; - Quyền lợi về chính trị; - Quyền lợi về phát triển chức nghiệp (học tập, bồi dưỡng đào tạo ….); - Quyền lợi gắn liền với việc đảm nhận các chức vụ lãnh đạo; - Quyền lợi sau khi nghĩ hưu; Quyền lợi chung của cán bộ, công chức Việt Nam được qui định trong Luật Cán bộ, công chức gồm:
1.Quyền của cán bộ, công chức được bảo đảm các điều kiện thi hành công vụ
- Được giao quyền tương xứng với nhiệm vụ.
- Được bảo đảm trang thiết bị và các điều kiện làm việc khác theo quy định của pháp luật.
- Được cung cấp thông tin liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
- Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ.
- Được pháp luật bảo vệ khi thi hành công vụ.
2.Quyền của cán bộ, công chức về tiền lương và các chế độ liên quan đến tiền lương -Được Nhà nước bảo đảm tiền lương tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Cán bộ, công chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc trong các ngành, nghề có môi trường độc hại, nguy hiểm được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.
- Được hưởng tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm, công tác phí và các chế độ khác theo quy định của pháp luật. 3.Quyền của cán bộ, công chức về nghỉ ngơi
- Cán bộ, công chức được nghỉ hàng năm, nghỉ lễ, nghỉ để giải quyết việc riêng theo quy định của pháp luật về lao động. Trường hợp do yêu cầu nhiệm vụ, cán bộ, công chức không sử dụng hoặc sử dụng không hết số ngày nghỉ hàng năm thì ngoài tiền lương còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng tiền lương cho những ngày không nghỉ. ( Được nghỉ hàng năm theo quy định tại Điều 74, Điều 75, khoản 2, khoản 3 Điều 76 và Điều 77, nghỉ các ngày lễ theo quy định tại Điều 73 và nghỉ việc riêng theo quy định tại Điều 78 của Bộ luật lao động; Trong trường hợp có lý do chính đáng được nghỉ không hưởng lương sau khi được sự đồng ý của người đứng đầu cơ quan, tổ chức sử dụng cán bộ, công chức; Được hưởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí và chế độ tử tuất theo quy định tại các điều 107,142,143,144,145 và 146 của Bộ luật lao động; Được hưởng chế độ hưu trí, thôi việc.Cán bộ, công chức là nữ còn được hưởng các quyền lợi quy định tại khoản 2 Điều 109, các điều 111,113,114,115,116 và 117 của Bộ luật lao động)
4.Các quyền khác của cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức được bảo đảm quyền học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội; được hưởng chính sách ưu đãi về nhà ở, phương tiện đi lại, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật; nếu bị thương hoặc hy sinh trong khi thi hành công vụ thì được xem xét hưởng chế độ, chính sách như thương binh hoặc được xem xét để công nhận là liệt sĩ và các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Quyền lợi của công chức cũng như nghĩa vụ đã nêu trên là chủ đề được quan tâm khi nói về cải cách công vụ nói riêng và cải cánh nền hành chính Nhà nước nói chung. Quyền lợi của công chức được xác định trên một số nền tảng:
- Cơ sở chính trị của Nhà nước, đó là mối quan hệ giữa hệ thống cơ quan nhà nước (nói chung) với đội ngũ công chức nói riêng
- Cơ sở kinh tế, mức độ phát triển kinh tế của quốc gia; khả năng thu nhập của Nhà nước; mức sống chung của xã hội
- Nền tảng văn hóa, phong tục tập quán
- Mối quan hệ giao lưu, hội nhập khu vực và quốc tế
Những trường hợp liên quan đến quyền của công chức thường được các nước quan tâm:
- Quyền thành lập và hoạt động nghiệp đoàn
- Quyền được đình công tập thể hay cá nhân
- Quyền tham gia vận động bầu cử chính trị
- Quyền ứng cử vào các cơ quan đại diện
- Quyền bí mật thu nhập
- Quyền về yêu sách (lương, phúc lợi, quần áo đồng phục)
- Quyền tham gia hoạt động kinh tế
- vv…
Nhiều nhu cầu đòi hỏi chính đáng của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và công chức nói riêng đang từng bược được đáp ưng. Nhiều quyền lợi, đặc biệt là quyền lợi vật chất (lương, bảo hiểm, hưu trí) đang được các nước quan tâm để cân bằng với quyền lợi so với người lao động cho các tổ chức không nhà nước đã và đang nhận được trong nền kinh tế thị trường. Nhiều nước đã lấy mức lương thị trường để trả cho công chức. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng công chức không chỉ có quyền lợi về vật chất.
VI.NHỮNG VIỆC CÁN BỘ, CÔNG CHỨC KHÔNG ĐƯỢC LÀM Những việc quy định công chức không được làm là một tất yếu nhằm ngăn chặn công chức bị lợi ích cá nhân có thể làm sai lệch các quyết định quản lý và đảm bảo cho việc thực thi công vụ gắn liền với quyền lực Nhà nước có hiệu quả. Luật Cán bộ - công chức dành hẳn một chương để đưa ra những việc cán bộ - công chức không được làm. Đó là : 1.Những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến đạo đức công vụ
- Trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc hoặc tham gia đình công.
- Sử dụng tài sản của Nhà nước và của nhân dân trái pháp luật.
- Lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn; sử dụng thông tin liên quan đến công vụ để vụ lợi.
- Phân biệt đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo dưới mọi hình thức.
2. Những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến bí mật nhà nước
- Cán bộ, công chức không được tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật nhà nước dưới mọi hình thức.
- Cán bộ, công chức làm việc ở ngành, nghề có liên quan đến bí mật nhà nước thì trong thời hạn ít nhất là 05 năm, kể từ khi có quyết định nghỉ hưu, thôi việc, không được làm công việc có liên quan đến ngành, nghề mà trước đây mình đã đảm nhiệm cho tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài.
- Chính phủ quy định cụ thể danh mục ngành, nghề, công việc, thời hạn mà cán bộ, công chức không được làm và chính sách đối với những người phải áp dụng quy định tại Điều này.
3. Những việc khác cán bộ, công chức không được làm
Ngoài những việc không được làm quy định tại Điều 18 và Điều 19 của Luật này, cán bộ, công chức còn không được làm những việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những việc khác theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền. Ngoài ra, nhiều quy định cán bộ, công chức không được làm nằm trong các văn bản của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội Một vấn đề đặc ra cho các nhà nước là làm thế nào để kiểm soát việc chấp hành các điều cấm đó một cách hiệu quả. Không có nước nào lại không nói đến cấm tham nhũng, nhưng thực tế tham nhũng đang trở thành căn bệnh lây lang trong bộ máy. Vấn đề công chức không được tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực mà họ quản lý chưa có một cơ chế kiểm soát. Nhiều quy định mang tính chung chung bằng những từ không lượng hóa được như: không được, không cho phép, phải báo cáo, v.v… nhưng thiếu các chế tài để kiểm soát. Cần có những chế tài cụ thể để gắn trách nhiệm quản lý với trách nhiệm kinh tế và thưởng phạt nghiêm minh thì mới có thể làm cho những gì không được trở thành hiện thực.
VII.CÁC HÌNH THỨC KHEN THƯỞNG, KỶ LUẬT CÔNG CHỨC Khen thưởng và kỷ luật công chức cũng như khen thưởng và kỷ luật người lao động nói chung là những hình thức rất cần thiết, tạo cơ hội cho mọi người làm việc tốt hơn. Nếu thiếu hình thức khen thưởng và kỷ luật thình việc đánh giá công chức hằng năm không có ý nghĩa. 1. Khen thưởng cán bộ,công chức Khen thưởng là sự khẳng định việc hoàn thành tốt nghĩa vụ công chức thông qua hiệu quả thực thi các công vụ cụ thể. Khen thưởng sẽ giúp cho công chức cũng như tập thể (hay người) sử dụng công chức có được những cơ hội để hiểu công chức hơn Cán bộ, công chức có thành tích trong công vụ thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua khen thưởng. Cán bộ, công chức được khen thưởng do có thành tích xuất sắc hoặc công trạng thì được nâng lương trước thời hạn, được ưu tiên khi xem xét bổ nhiệm chức vụ cao hơn nếu cơ quan, tổ chức, đơn vị có nhu cầu.
Trên thực tế, khen thưởng công chức có thể có rất nhiều hình thức: - Hình thức tôn vinh, danh dự - Hình thức vật chất - Hình thức kết hợp các danh dự, tôn vinh và vật chất Hình thức sau đã được nhiều thời đại khác nhau của các nước sử dụng nhằm ban thưởng cả danh dự (huân chương, tước hiệu) và vật chất (lương bổng hằng năm, đất đai…) cho những người có công với nước Ở nước ta rất nhiều hình thức khen thưởng đã được sử dụng nhằm tạo cho những người có thành tích tốt trong lao động, sản xuất và chiến đấu. Nhiều loại huân, huy chương, kỷ niêm chương đã được trao tặng. 2. Kỷ luật cán bộ, công chức Trong thực tế, cán bộ, công chức do gắn trực tiếp với quyền lực công, nguồn tài chính công và phải giải quyết quyền, lợi ích, nghĩa vụ của công dân, tổ chức nên có khả năng lạm dụng quyền lực, sử dụng không hiệu quả nguồn tài chính công cũng như áp dụng sai, hoặc cố tình hiểu sai các quy định thủ tục hành chính khi giải quyết công việc của dân. Khi cán bộ công chức có sai phạm không chấp hành nghũa vụ thì phải chịu kỷ luật công vụ. Kỷ luật cán bộ, công chức trong trường hợp này chỉ hiểu là các hình thức kỷ luật gắn liền với công cụ. Ngoài ra công chức cũng bị xử lý như công dân khi vi phạm pháp luật nhà nước. Kỷ luật cán bộ,công chức đối với công vụ mang ý nghĩa của kỷ luật hành chính. Điều đó cũng gắn liền với những quyền lợi mà công chức có thể không nhận được và trong trường hợp cao nhất, công chức không được làm trong nền công vụ. Vi phạm kỷ luật trong các cơ quan nhà nước có thể bị coi là vấn đề đạo đức; xã hội không chấp nhận. Nhưng có thể quan niệm nhẹ nhàng hơn về kỷ luật công vụ người bị thải hồi khỏi nền công vụ vẫn có thể trở thành người đứng đầu nhiều tổ chức phi Chính phủ, công ty, tập đoàn.
Luật Cán bộ - công chức quy định một số hình thức kỷ luật sau: a.Các hình thức kỷ luật đối với cán bộ
-. Cán bộ vi phạm quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong những hình thức kỷ luật sau đây:
+ Khiển trách;
+ Cảnh cáo;
+ Cách chức;
+Bãi nhiệm.
-. Việc cách chức chỉ áp dụng đối với cán bộ được phê chuẩn giữ chức vụ theo nhiệm kỳ.
- Cán bộ phạm tội bị Tòa án kết án và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương nhiên thôi giữ chức vụ do bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm; trường hợp bị Tòa án phạt tù mà không được hưởng án treo thì đương nhiên bị thôi việc.
- Việc áp dụng các hình thức kỷ luật, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật cán bộ được thực hiện theo quy định của pháp luật, điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội và văn bản của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
b. Các hình thức kỷ luật đối với công chức
- Công chức vi phạm quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong những hình thức kỷ luật sau đây:
+ Khiển trách;
+ Cảnh cáo;
+ Hạ bậc lương;
+ Giáng chức;
+ Cách chức;
+ Buộc thôi việc.
- Việc giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
- Công chức bị Tòa án kết án phạt tù mà không được hưởng án treo thì đương nhiên bị buộc thôi việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; công chức lãnh đạo, quản lý phạm tội bị Tòa án kết án và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương nhiên thôi giữ chức vụ do bổ nhiệm.
-. Chính phủ quy định việc áp dụng các hình thức kỷ luật, trình tự, thủ tục và thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với công chức.

Similar Documents