Free Essay

ChuyêN đề VăN Hóa ứNg Xử VớI Phap LuậT

In:

Submitted By tomkien
Words 66119
Pages 265
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
= = =

VĂN HÓA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
NHÌN TỪ MỐI QUAN HỆ VỚI VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG

ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

Chủ nhiệm đề tài: TS. LÊ THỊ HỒNG VÂN

TP. HCM - 2010
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài 5
2. Lịch sử vấn đề 7
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài 8
4. Mục tiêu của đề tài 9
5. Phương pháp nghiên cứu 9
6. Dự kiến sản phẩm nghiên cứu của đề tài và khả năng ứng dụng 10
7. Cấu trúc của công trình nghiên cứu 11
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VĂN HÓA – VĂN HÓA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY 12
1.1. Khái niệm về văn hóa và văn hóa pháp luật 12
1.1.1. Giới thuyết về khái niệm về văn hóa 12 1.1.1.1. Khái niệm văn hóa 12 1.1.1.2. Đặc trưng và biểu hiện của văn hóa 15 1.1.1.3. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển 18
1.1.2. Giới thuyết về văn hóa pháp luật 19 1.1.2.1. Khái niệm văn hóa pháp luật 19 1.1.2.2. Biểu hiện của văn hóa pháp luật 22
1.2. Thực trạng của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay 24
1.2.1. Ý thức và hành vi ứng xử không thượng tôn pháp luật 26 1.2.1.1. Vi phạm trong lĩnh vực giao thông 26 1.2.1.2. Vi phạm trong quản lý xây dựng 31 1.2.1.3. Vi phạm trong bảo vệ môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm 34 1.2.1.4. Sự gia tăng các hành vi bạo lực và ứng xử “luật rừng” 41
1.2.2. Tính hiệu lực của các thiết chế thực thi pháp luật và văn bản pháp luật 50 1.2.2.1. Thực trạng chất lượng của bộ máy công quyền 50 1.2.2.2. Thực trạng về chất lượng xét xử của tòa án 60 1.2.2.3. Thực trạng về chất lượng văn bản pháp luật 71
1.3. Đánh giá chung về thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay 84
1.3.1.Thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay - bức tranh xám màu. 84
1.3.2. Các nguyên nhân trực tiếp 85
CHƯƠNG 2: SỰ TÁC ĐỘNG CỦA VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐẾN VĂN HÓA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY 88
2.1. Sự tác động của văn hóa nông nghiệp lúa nước 90
2.1.1. Tính cộng đồng 90
2.1.2. Lối ứng xử trọng tình nhẹ lý 95
2.1.3. Lối sống trọng lệ hơn luật và ứng xử “phép vua thua lệ làng” 98
2.1.4. Tư duy tiểu nông tùy tiện, chủ quan, cảm tính 105
2.2. Sự tác động của tư tưởng Nho giáo ………… 108
2.2.1. Nho giáo và tư tưởng trong đạo lý hơn pháp lý 108
2.2.2. Nho giáo và truyền thống “vô tụng” 110
2.3. Phật giáo với tư tưởng hiếu hòa, nhân ái, vị tha 117
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO VĂN HÓA PHÁP LUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 121
3.1. Các giải pháp nền tảng có tính chiến lược 117
3.1.1. Thanh lọc, tẩy trừ những tiêu cực, lạc hậu của văn hóa truyền thống 122 3.1.1.1. Thay đổi tư duy tiểu nông tùy tiện, chủ quan, cảm tính 122 3.1.1.2. Thay đổi thói quen ứng xử của văn hóa làng . 122 3.1.2. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại 125 3.1.2.1. Tạo điều kiện cho sự phát triển ý thức về quyền cá nhân 125 3.1.2.2. Xây dựng ý thức và thói quen sử dụng pháp luật 126
3.2. Các giải pháp cụ thể và cấp bách 127
3.2.1. Xử lý nghiêm minh, triệt để và kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. 127
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và các thiết chế thực thi pháp luật.......128
3.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực ngành Luật vừa hồng vừa chuyên…….……. 130
3.2.4. Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân…….....….……….131
KẾT LUẬN………………………………….………………………….…....132

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đặt chúng ta trước nhiều mục tiêu và nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, trong đó có mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền, lấy pháp luật làm nền tảng điều tiết các hành vi cá nhân và các quan hệ xã hội, hướng đến một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, những năm gần đây, Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, cùng với việc tuyên truyền, phổ biến để pháp luật đi vào đời sống, nhằm từng bước hình thành nếp sống và thói quen hành xử tôn trọng pháp luật. Nhưng thực tế cho thấy, văn hóa ứng xử với pháp luật trong xã hội ta hiện nay còn nhiều tiêu cực, biểu hiện từ các hành vi ứng xử với pháp luật của mỗi cá nhân trong đời sống hàng ngày cho đến trình độ vận dụng công cụ pháp luật của Nhà nước trong quản lí xã hội cũng như việc thực thi pháp luật trong thực tế… Hệ quả là, thói quen không tuân thủ pháp luật, coi thường pháp luật, lách luật, lối ứng xử tùy tiện với pháp luật… đang tồn tại và biểu hiện rất phổ biến, không chỉ với dân thường mà ngay cả đối với những cán bộ, công chức trong các cơ quan công quyền; thậm chí, cả với những người đang nắm giữ cán cân công lý của xã hội. Theo đó là sự gia tăng đến mức báo động các loại tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Những biểu hiện xuống cấp và suy thoái đạo đức, đặc biệt là “ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền” đang là nỗi bất bình của toàn xã hội. Thực trạng ấy đang từng ngày làm ô nhiễm bầu không khí tinh thần của xã hội, làm suy giảm đáng kể lòng tin của người dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật, dẫn đến coi thường kỉ cương phép nước. Đó cũng chính là những biểu hiện của một đời sống văn hóa pháp luật không lành mạnh, một thái độ ứng xử văn hóa không thượng tôn pháp luật.
1.2. Trong bối cảnh xã hội mà sự vi phạm pháp luật trở nên phổ biến và đáng báo động như hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền càng đặt ra cấp bách và khẩn thiết hơn bao giờ hết. Trong nhiều bước đi và giải pháp có tính chiến lược và đồng bộ, cần phải coi việc xây dựng một nền văn hóa pháp luật tích cực, lành mạnh như một nhiệm vụ có tính nền tảng cần được đưa lên vị trí ưu tiên trong chiến lược phát triển. Văn hóa pháp luật vừa là một lĩnh vực biểu hiện của văn hóa xã hội, nhưng cũng đồng thời là sản phẩm của văn hóa xã hội, chịu sự tác động của các yếu tố xã hội như phương thức sản xuất, các hệ tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán… Sự hình thành văn hóa pháp luật của một quốc gia, do vậy, không thể không bị chi phối bởi những đặc trưng văn hóa truyền thống. Nói cách khác, quá trình hình thành nên một nền văn hoá pháp luật cũng như thái độ của con người trong việc sử dụng pháp luật đều có thể tìm thấy nguyên nhân sâu xa trong tập quán sản xuất, nếp sống và những thói quen sinh hoạt…
Việt Nam là một quốc gia đã có lịch sử cả ngàn năm tồn tại và phát triển trên nền tảng của phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước tiểu nông và tư tưởng Nho giáo, nơi mà các chuẩn mực điều chỉnh hành vi của xã hội dựa trên cơ sở của luật tục hơn là luật pháp, đạo lý hơn là pháp lý, nay chuyển sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nền kinh tế thị trường. Đây chính là một lực cản rất lớn trong quá trình hội nhập, phát triển kinh tế và cao hơn là xây dựng một nhà nước pháp quyền. Bởi vậy, việc nhận diện văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay nếu không chỉ ra được những căn nguyên sâu xa từ nền tảng văn hóa truyền thống đứng sau những hiện tượng tiêu cực trong những hành vi ứng xử với pháp luật thì khó có thể tìm ra những giải pháp có tính chiến lược để xây dựng một nền văn hóa pháp luật Việt Nam tích cực, lành mạnh, tạo nền tảng để thực hiện thành công công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
1.3. Nếu văn hóa được coi là nền tảng, là nội lực của sự phát triển thì văn hóa pháp luật là nền tảng, là nội lực để thực hiện thành công công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập toàn cầu hóa ở nước ta hiện nay. Để mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta được thực hiện thành công, việc xây dựng, tạo lập một nền tảng văn hóa pháp luật lành mạnh và tích cực đang được đặt ra như một nhiệm vụ cấp thiết. Một trong những giải pháp có tính nền tảng để thực hiện mục tiêu đó, theo chúng tôi, phải bắt đầu từ việc giáo dục, trang bị những kiến thức về văn hóa ứng xử với pháp luật, trước hết cho chính những người hoạt động trong ngành pháp luật, bởi họ không chỉ có vai trò làm gương, đại diện cho văn hóa ứng xử tích cực đối với pháp luật, mà quan trọng hơn, họ còn có sứ mệnh “hướng đạo” trong việc xây dựng một nền văn hóa pháp luật lành mạnh, tích cực trong điều kiện và hoàn cảnh của nước ta hiện nay. Bởi vậy, trong nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo của trường Đại học Luật, cùng với việc truyền thụ kiến thức pháp lý, không nên, và không thể coi nhẹ việc giáo dục tình cảm, đạo lý và thái độ ứng xử nhân văn ngay trong môi trường điều chỉnh của pháp luật, bởi lẽ, việc nắm vững và áp dụng đúng các điều luật không hoàn toàn đồng nghĩa với việc hành xử một cách có văn hóa với pháp luật.
Với tất cả những lý do đó, chúng tôi thực hiện đề tài này với mục đích trước hết, và trực tiếp nhất, là trang bị cho sinh viên ngành Luật những kiến thức về văn hóa ứng xử với pháp luật, giúp họ ý thức được mối quan hệ bản chất giữa văn hóa với pháp luật và lý giải được thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay từ những căn nguyên sâu xa của nền tảng văn hóa truyền thống. Trên cơ sở đó để khi ra trường họ biết cách hành xử có văn hóa trong nghề nghiệp, có ý thức và trách nhiệm trong việc xây dựng một xã hội có nền văn hóa pháp luật tích cực, lành mạnh để hội nhập và phát triển.
2. Lịch sử vấn đề
Những năm gần đây, khi nhân loại ngày càng ý thức sâu sắc hơn về vai trò của văn hóa với tư cách là nền tảng của sự phát triển thì các nghiên cứu về văn hóa đang trở thành một vấn đề được quan tâm đặc biệt. Trong xu thế chung ấy, ở nước ta, trong hơn một thập niên trở lại đây, việc nghiên cứu văn hóa đã không chỉ dừng lại ở những nghiên cứu cơ bản như: bản chất của văn hóa, cấu trúc, vai trò và chức năng của văn hóa, tác động của văn hóa đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội… mà đang có xu hướng ngày càng đi vào chuyên sâu, gắn với các lĩnh vực ứng dụng thực tiễn như: văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa du lịch, văn hóa kinh doanh… Trong đó, văn hóa pháp luật cũng là một lĩnh vực nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn cao, thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Cho đến nay, đã có khá nhiều hội thảo và công trình nghiên cứu về văn hóa pháp luật đã được thực hiện và công bố như: Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật [69]; Văn hóa pháp luật [15]; Văn hóa tư pháp [70]; Văn hóa pháp lý với sự nghiệp đổi mới ở nước ta [20]; Xây dựng nhà nước pháp quyền trong bối cảnh văn hóa Việt Nam [54]; Văn hóa pháp lý Việt Nam [65]. Ngoài ra còn có những bài báo, những cuốn sách chuyên khảo, những hội thảo khoa học dù không trực tiếp đặt vấn đề nghiên cứu văn hóa pháp luật như một đối tượng khảo sát độc lập nhưng cũng đã đề cập đến những khía cạnh, đưa ra những cứ liệu đánh giá về thực trạng của đời sống pháp luật ở nước ta hiện nay như: vấn đề thực thi pháp luật, hiệu quả của pháp luật, vấn đề giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật,…
Các nghiên cứu trên đây, ở những mức độ khác nhau đã hướng sự quan tâm vào các vấn đề:
1. Chỉ ra thực trạng và lý giải nguyên nhân trực tiếp tạo nên thái độ ứng xử với pháp luật trong xã hội ta hiện nay.
2. Phân tích vai trò của việc xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền.
3. Đề xuất các giải pháp để xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, trong số các công trình nghiên cứu trên đây chưa có công trình nào khảo sát cụ thể về thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay dựa trên tư liệu là các bài báo được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng trong khoảng thời gian 3 năm lại nay. Cũng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu và lý giải nguyên nhân của thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay từ sự chi phối của văn hóa truyền thống như một đối tượng nghiên cứu độc lập.
Bởi vậy, đề tài nghiên cứu này sẽ bổ sung thêm những vấn đề nghiên cứu mà những người đi trước còn bỏ ngỏ, đó là:
- Khảo sát để nhận diện thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay dựa trên các cứ liệu là những bài báo được đăng tải trên các phương tiện thông tin báo chí (những tờ báo có uy tín) trong khoảng 3 năm gần đây.
- Nghiên cứu sự tác động, chi phối của các đặc trưng văn hóa truyền thống đến văn hóa pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu của đề tài: nhận diện thực trạng tiêu cực trong văn hóa pháp luật ở Việt Nam hiện nay và lý giải nguyên nhân từ sự chi phối của các đặc trưng văn hóa truyền thống. * Giới hạn phạm vi khảo sát thực trạng là những bài báo được đăng tải trên các tờ báo có uy tín viết về những biểu hiện tiêu cực trong văn hóa ứng xử với pháp luật trong thời gian 4 năm trở lại đây.
4. Nhiệm vụ của đề tài
4.1. Chỉ ra và phân tích thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Lý giải nguyên nhân từ sự chi phối của nền tảng văn hóa truyền thống.
4.3. Từ góc nhìn văn hóa để đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao văn hóa pháp luật trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại:
Để nhận diện thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay, chúng tôi đã sử dụng phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại trên nguồn cứ liệu là các bài báo được đăng tải trên các tờ báo in và báo điện tử có uy tín trong khoảng 3 năm lại nay. Trong số gần 400 bài báo liên quan đến văn hóa ứng xử với pháp luật đã được sưu tầm, thống kê, chúng tôi đã lựa chọn hơn 200 bài để khảo sát và phân loại theo các lĩnh vực là những điểm nóng gây nhiều bức xúc trong dư luận, đó là: a) Hành vi ứng xử với pháp luật: vi phạm trong lĩnh vực giao thông; trong quản lý xây dựng; bảo vệ môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm; bạo lực và “luật rừng” (ở cả hai phía: người dân và công chức trong các cơ quan công quyền). b) Hệ thống pháp luật và các thiết chế pháp luật: hệ thống văn bản pháp luật; chất lượng nguồn nhân lực của các cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật; tính hiệu lực của các thiết chế pháp luật.
5.2. Phương pháp đồng đại: được sử dụng để phân tích, lý giải các nguyên nhân xã hội đang chi phối đến văn hóa ứng xử với pháp luật của xã hội ta hiện nay.
5.3. Phương pháp lịch đại: được sử dụng để nghiên cứu sự chi phối của các đặc trưng văn hóa truyền thống đến văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay.
5.4. Phương pháp phân tích, so sánh: được dùng để mổ xẻ, soi xét các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp chi phối đến các hành vi pháp luật từ nhiều phía, nhiều chiều.
5.5. Phương pháp hệ thống: được sử dụng để liên kết, xâu chuỗi các yếu tố trong sự chi phối, liên đới lẫn nhau trong cả hai tương quan đồng đại và lịch đại.
6. Dự kiến sản phẩm nghiên cứu của đề tài và khả năng ứng dụng
6.1. Đối với nhiệm vụ đào tạo chuyên ngành Luật: sản phẩm nghiên cứu sau khi nghiệm thu đề nghị được chỉnh lý, bổ sung thành một chương trong nội dung môn Đại cương văn hóa Việt Nam để giảng dạy cho sinh viên hệ đào tạo cử nhân Luật. Qua đó để:
6.1.1. Tạo sự gắn kết giữa một môn học thuộc khối kiến thức cơ sở ngành với kiến thức chuyên ngành Luật, để việc giảng dạy môn Đại cương Văn hóa Việt Nam thể hiện đặc thù riêng của trường Luật, qua đó nhằm nâng cao tính ứng dụng thực tiễn của môn học.
6.1.2. Bổ sung thêm những kiến thức về văn hóa pháp luật – một mảng kiến thức rất cần thiết trong việc hành nghề Luật, nhưng hiện chưa được giảng dạy trong chương trình đào tạo cử nhân Luật, cụ thể là:
- Trang bị cho sinh viên những tri thức về văn hóa ứng xử với pháp luật cũng như ý thức một cách sâu sắc về vai trò của văn hóa pháp luật trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
- Nhận diện được thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay và lý giải được những căn nguyên của thực trạng ấy từ sự chi phối của các đặc trưng văn hóa truyền thống, qua đó nhằm gắn kết những tri thức cơ sở ngành với các tri thức chuyên ngành, giúp sinh viên biết vận dụng những kiến thức về văn hóa Việt Nam vào việc lý giải những vấn đề trong thực tiễn ứng xử với pháp luật.
- Việc bổ sung những kiến thức về văn hóa pháp luật nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Luật một cách toàn diện, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, bởi những tri thức chuyên sâu về pháp luật không đồng nghĩa với chất lượng văn hóa trong thái độ ứng xử với pháp luật. Việc giáo dục văn hóa ứng xử với pháp luật cho sinh viên Luật, vì vậy, trước hết để nâng cao chất lượng văn hóa trong hành xử pháp lý cho những người hành nghề luật, để họ góp phần tích cực vào việc xây dựng một xã hội có nền văn hóa pháp luật cao, không chỉ bằng chính những hành vi mẫu mực của chính mình để “hướng đạo”, nêu gương, mà quan trọng hơn, họ còn có khả năng phổ biến, giáo dục văn hóa pháp luật cho nhiều người khác.
6.2. Đối với thực tiễn pháp luật:
Đề tài sau khi hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo cho các cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật và thực thi pháp luật cũng như những ai quan tâm tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hóa với pháp luật và thực trạng của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay.
7. Cấu trúc của công trình nghiên cứu:
Cấu trúc của công trình nghiên cứu gồm phần mở đầu, phần kết luận và phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Khái niệm văn hóa pháp luật và thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay
Chương 2: Sự tác động của văn hóa truyền thống đến văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay
Chương 3: Các giải pháp để nâng cao văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay.
Cuối cùng là danh mục tài liệu tham khảo.

CHƯƠNG 1 KHÁI NIỆM VĂN HÓA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Khái niệm về văn hóa và văn hóa pháp luật Văn hóa pháp luật là một bộ phận, một lĩnh vực biểu hiện của văn hóa dân tộc, vì vậy để hiểu văn hóa pháp luật trước hết không thể không bắt đầu từ việc giới thuyết khái niệm văn hóa với vai trò là công cụ lý thuyết nền tảng. 1.1.1. Giới thuyết về khái niệm văn hóa 1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là gì? Đó là một câu hỏi mà nhân loại đã tốn không ít giấy mực với hàng trăm câu trả lời từ những góc nhìn, những cách tiếp cận khác nhau. Định nghĩa đầu tiên về văn hóa gắn liền với tên tuổi của nhà nhân chủng học nổi tiếng người Anh - Edward Burnett Tylor (1832-1917). Trong công trình nghiên cứu Văn hóa nguyên thủy (1871), ông viết: “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên của xã hội” [21, 13].
Định nghĩa này của E.B.Tylor vẫn thường được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa trên thế giới dẫn ra như một mẫu mực có tính kinh điển, trong đó quan niệm văn hóa bao gồm một tổng thể những thành quả sáng tạo của con người.
Sau công trình nghiên cứu của E.B.Tylor, việc nghiên cứu văn hóa đã được triển khai và mở rộng theo nhiều hướng khác nhau, cùng với đó là sự ra đời của rất nhiều định nghĩa văn hóa từ những góc độ tiếp cận khác nhau. Trong cuốn Văn hóa: tổng thuật có phê phán các quan điểm và định nghĩa, hai nhà văn hóa người Mỹ là A.L.Kroeber và Cluc Khohn đã thống kê được, tính đến năm 1952, trên các sách báo phương Tây đã có khoảng 150 định nghĩa về văn hóa. Còn theo nhà nghiên cứu Phan Ngọc, đến năm 1994, trên thế giới đã có trên 400 định nghĩa về văn hóa.
Ở Việt Nam hiện cũng đã và đang tồn tại nhiều định nghĩa văn hóa, trong đó có thể nêu một số định nghĩa tiêu biểu:
- Trong công trình nghiên cứu Việt Nam văn hóa sử cương xuất bản lần đầu tiên vào năm 1938, học giả Đào Duy Anh quan niệm: “Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: văn hóa tức là sinh hoạt” [1, 13].
- Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng định nghĩa về văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [39, 431].
- Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [59, 10]. Số lượng phong phú các định nghĩa về văn hóa đã phản ánh những góc độ tiếp cận khác nhau, đồng thời cũng cho thấy tính chất phức tạp của vấn đề. Tuy nhiên, phần đông các quan niệm đều thống nhất khi cho rằng, văn hóa là sản phẩm tất yếu của xã hội, được hình thành trong hành trình sống của mỗi cộng đồng, khi nó là hệ quả của sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội, được kết tinh và hiện diện trong mọi hành vi sáng tạo của con người, được biểu hiện qua tất cả những sản phẩm vật chất và tinh thần do con người làm ra, từ công cụ sản xuất và các vật dụng sinh hoạt thiết yếu hàng ngày cho đến các sản phẩm nghệ thuật; từ tri thức khoa học cho đến kinh nghiệm sống… Không chỉ hiện diện trong các sản phẩm vật chất và tinh thần do con người làm ra, văn hóa đồng thời lại cũng được hàm chứa ngay trong cái phương thức mà con người tạo ra các sản phẩm đó. Văn hóa cũng là một thành tố có mặt trong các mối quan hệ xã hội giữa con người với con người, dù đó là quan hệ kinh tế hay tôn giáo, quan hệ pháp luật hay các quan hệ đời thường… Văn hóa cũng đồng thời là bản thân các năng lực cấu thành nhân cách con người, từ trí tuệ đến đạo đức; từ tâm hồn đến tình cảm; từ ý chí đến các năng lực sáng tạo…, tất cả đã hình thành nên lối sống, thói quen, phong tục tập quán, cách tư duy, ứng xử, qua đó phản ánh kiểu sống, lối suy nghĩ, cách hành xử của con người trong một môi trường sinh thái - nhân văn cụ thể, làm nên diện mạo riêng của mỗi cộng đồng. Như vậy, văn hóa phản ánh phương thức sống của một cộng đồng, được hình thành như là hệ quả tất yếu của sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Tổng hợp tất cả những phương diện trên, văn hóa bao trùm lên tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống con người, biểu hiện ở kiểu sống, “kiểu nhân vi”, ở phương thức sinh hoạt của con người, làm nên những nét riêng tiêu biểu và có tính bền vững, tất cả đều góp phần làm nên đặc trưng riêng của một dân tộc, tạo ra sự khác biệt giữa dân tộc này với dân tộc khác.
Khi văn hóa là một hiện tượng phổ quát của nhân sinh, là cái “vô sở bất tại” (không đâu không có), khi nó liên quan đến tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống con người, được biểu hiện vô cùng phong phú và đa dạng, từ vật chất đến tinh thần, từ vật thể đến phi vật thể, từ hữu hình đến vô hình thì mọi góc độ tiếp cận đều khó có thể bao quát hết được phạm vi của nó, cả về phương diện định tính lẫn định lượng. Và cũng do mỗi lĩnh vực hoạt động của con người đều có sự hiện diện của văn hóa nên gần đây người ta đã quan tâm nhiều đến việc nghiên cứu và nhận diện văn hóa theo các lĩnh vực chuyên ngành như: văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa kinh doanh, văn hóa ẩm thực, văn hóa du lịch, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa giao tiếp, văn hóa giao thông, văn hóa pháp luật, …
Không thể phủ nhận được rằng, trong di sản văn hóa của một dân tộc / cộng đồng bao giờ cũng kết tinh những giá trị tinh hoa đóng vai trò là nền tảng, cốt lõi, làm điểm tựa để nuôi dưỡng và bảo tồn sức sống của một dân tộc, bởi con người ở đâu và bao giờ, trong hành trình sống của mình cũng luôn hướng đến những giá trị tích cực, cũng luôn khát khao vươn tới chân – thiện – mỹ. Nhưng mặt khác cũng cần thấy rằng, nếu như văn hóa là một kiểu ứng xử đặc trưng của một cộng đồng trước những thách thức khác nhau của những điều kiện tự nhiên và xã hội, thì sự ứng xử có thể thế này hoặc thế kia, có mặt tốt cũng có mặt xấu, có tích cực và cũng có tiêu cực, nhất là khi những điều kiện tự nhiên và xã hội không phù hợp hay đối lập với các nhu cầu và lợi ích của con người. Điều đó cũng có nghĩa rằng, trong diện mạo văn hóa của mỗi cộng đồng không chỉ gồm những mặt tích cực, giá trị mà còn có những nhược điểm, hạn chế. Thêm vào đó, cái được coi là có giá trị văn hóa cũng không phải là những giá trị hằng hữu, bất biến, mà còn được xem xét tùy thuộc vào các góc nhìn và các tiêu chí đánh giá khác nhau. Xét từ phương diện đồng đại, cùng một đặc trưng văn hóa nhưng có thể có giá trị xét trên tiêu chí này mà lại không có giá trị, thậm chí phản giá trị xét từ góc nhìn khác. Ví dụ, tính cộng đồng có giá trị khi nó tạo nên tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, lối sống sẻ chia, đùm bọc – một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, nhưng xét trên phương diện bảo vệ quyền cá nhân hay quan hệ với pháp luật thì đây lại là nguyên nhân tạo nên nhiều hạn chế và những ứng xử tiêu cực. Xét trên phương diện lịch đại, các thước đo giá trị cũng không phải bất biến, vĩnh cửu, bởi vậy, một đặc trưng văn hóa nào đó ở giai đoạn này thì có giá trị tích cực nhưng ở giai đoạn khác thì lại trở thành phản giá trị, thành lực cản khi nó không còn phù hợp để thích nghi trong bối cảnh mới.
Bởi vậy, việc nghiên cứu, nhận diện văn hóa của một dân tộc cần có một cái nhìn toàn diện và biện chứng, trong đó không chỉ hướng đến việc khẳng định những mặt tích cực, giá trị mà còn cần phải nhận diện cả những nhược điểm, những tiêu cực, hạn chế khi nó cũng là một phần tất yếu trong hành trang tinh thần của một dân tộc.
1.1.1.2. Đặc trưng và biểu hiện của văn hóa
Là một hình thái ý thức xã hội, văn hóa cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, đều là sản phẩm của một thực tiễn xã hội cụ thể, và đến lượt mình, nó lại phản ánh, tác động trở lại thực tiễn xã hội ấy. Tuy nhiên, trong tương quan với các hình thái ý thức xã hội khác, văn hóa là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt. Tính chất đặc biệt ấy được xác định bởi ba đặc trưng tiêu biểu: tính đa diện và tổng hợp, tính hệ thống, tính truyền thống.
Trước hết, văn hóa là một hình thái ý thức xã hội có tính đa diện và tổng hợp, bởi nó thẩm thấu và hiện diện trong mọi hoạt động sống của con người. Văn hóa do không tồn tại như một lĩnh vực độc lập, không có giá trị tự thân, nên cũng chính vì vậy mà nó hiện diện khắp nơi, không đâu không có, thẩm thấu vào tất cả mọi phương diện của đời sống xã hội. Văn hóa do đó là một khái niệm có tính tổng hợp - đó là dấu ấn về lối sống của một cộng đồng in dấu lên mọi hoạt động vật chất (cách thức lao động sản xuất, ăn, mặc, ở, đi lại), mọi mặt sinh hoạt tinh thần (nhận thức, tư tưởng, tôn giáo, phong tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ, nghệ thuật, giao tiếp ứng xử, lễ hội…), mọi quan hệ gia đình, xã hội (được qui chế thành đạo đức, nghi lễ, pháp luật…). Tổng hợp tất cả những điều đó mới làm nên cái diện mạo riêng trong mô thức ứng xử, trong phương thức sống của một cộng đồng, khiến cho cộng đồng này không giống với các cộng đồng khác. Do tính đa diện và tổng hợp, văn hóa như một bầu khí quyển bao trùm lên cuộc sống của chúng ta, khiến cho - một cách tự nhiên và tất yếu, mọi người đều không thể sống ngoài “bầu khí quyển văn hóa” ấy.
Tính đa diện cũng chi phối đến một đặc trưng khác của văn hóa, đó là tính hệ thống. Văn hóa do nhiều thành tố hợp thành, nhưng giữa các thành tố trong cấu trúc của một nền văn hóa không tồn tại như là những đơn vị rời rạc, riêng lẻ, độc lập, mà giữa chúng có các mối liên hệ nhiều mặt, nhiều chiều, đan cài, móc xích, qui định và thẩm thấu vào nhau tạo thành hệ thống, trong đó yếu tố này là nguyên nhân và hệ quả của những yếu tố khác. Do đó, trong thực tế, không thể tách bạch các thành tố của hệ thống văn hóa vì chúng tồn tại trong sự gắn bó hữu cơ, lồng vào nhau như tâm hồn và thể xác, làm thành diện mạo của một nền văn hóa với một tổng thể các sản phẩm vật chất và tinh thần.
Vì văn hóa có tính hệ thống nên khi khảo sát một hiện tượng văn hóa, không thể không đặt hiện tượng ấy trong tính hệ thống, trong sự chi phối, ràng buộc lẫn nhau giữa nhiều yếu tố làm nên hệ thống trong các tương quan đồng đại.
Cùng với tính hệ thống, một trong những đặc trưng tiêu biểu của văn hóa là tính truyền thống. Nếu văn minh là sản phẩm có tính thời đoạn thì văn hóa là sản phẩm của tính quá trình, được tích lũy qua nhiều thế hệ, được kế thừa và trao truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau. Bởi vậy văn hóa là di sản tinh thần tồn tại ổn định và có sức sống lâu bền, thẩm thấu trong chiều sâu tâm thức của cộng đồng để trở thành hành trang tinh thần mà mỗi cộng đồng mang theo khi bước từ thời đại này sang thời đại khác. Truyền thống của văn hóa của một dân tộc được biểu hiện qua các di sản văn hóa, bao gồm hai bộ phận, đó là di sản vật thể (hữu hình) như: đền, chùa, lăng tẩm, nhà cửa, công cụ sản xuất, vật dụng… và các di sản văn hóa phi vật thể tồn tại dưới dạng tinh thần, ẩn trong chiều sâu tâm thức cộng đồng, đó là những kinh nghiệm tập thể được lưu truyền trong qua không gian và thời gian, được đúc kết thành mô thức ứng xử xã hội, biểu hiện thông qua ngôn ngữ, lối sống, ẩm thực, phong tục, tập quán, nghi lễ, pháp luật, nghệ thuật, … tạo thành nếp sống chung của cộng đồng. Chính mô thức ứng xử đảm bảo cho các thành viên trong cộng đồng có sự gắn kết với nhau, tạo nên một nếp sống chung ổn định và bền vững.
Về biểu hiện của văn hóa, nhà nghiên cứu Phạm Đức Dương đã đưa ra quan niệm về một sơ đồ cấu trúc hai tầng bậc: cấu trúc bề mặt và cấu trúc chiều sâu. Cấu trúc bề mặt gồm hệ thống ký hiệu biểu thị và hệ thống ký hiệu biểu tượng, đó là biến số, yếu tố động của văn hóa; còn cấu trúc chiều sâu là cái phần chìm, khó nhìn thấy, nó nằm trong tâm thức của con người, là yếu tố tĩnh của văn hóa, được kết tinh và tồn tại trong tiềm thức của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng trong suốt hành trình sống. Giải thích về mối quan hệ giữa hai tầng cấu trúc này, ông nói: “Cấu trúc chiều sâu là cái kết tinh, lắng đọng nằm ẩn dưới cơ tầng đóng vai trò định hướng, điều chỉnh mọi sự biến đổi trên cấu trúc bề mặt, quy định bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng và nhân cách của mỗi cá nhân, định hình nền văn hóa của mỗi dân tộc trong không gian và thời gian [14; 221-236]. Cấu trúc chiều sâu của văn hóa đó là ý thức, là các năng lực tinh thần của con người bao gồm tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, kinh nghiệm sống và thói quen, phong tục, tập quán… được hình thành trong một môi trường sinh thái và nhân văn cụ thể. Cấu trúc chiều sâu của văn hóa ẩn chứa trong ý thức, tiềm thức của con người, tuy không dễ nhận ra, và lại càng khó khăn hơn để có thể mô tả, nhận diện, nhưng đó là nền tảng để hình thành nên các quy tắc hướng dẫn tư duy, điều chỉnh hành vi ứng xử và phương thức hành động, cũng như sự lựa chọn các thang bậc giá trị trong xã hội và chi phối mọi hoạt động thực tiễn của con người.
Chính cái cấu trúc chiều sâu khiến cho “văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả”. Bởi vậy, để nhận diện một hiện tượng văn hóa, không thể giản đơn chỉ dừng lại ở việc mô tả, liệt kê các hiện tượng ở cấp độ bề mặt, tức không chỉ trả lời câu hỏi “cái gì?”, “như thế nào?”, mà quan trọng hơn là phải trả lời được câu hỏi “tại sao lại như thế?”, tức là phải chỉ ra được cái cấu trúc chiều sâu, phải lý giải được những căn nguyên sâu xa từ trong ý thức, tiềm thức chi phối các hiện tượng bề mặt ấy.
1.1.1.3. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển
Trong nỗ lực tìm kiếm động lực của sự phát triển bền vững, văn hoá hiện đang là vấn đề được đặc biệt quan tâm trong việc hoạch định chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, bởi con người là nhân tố quyết định sự phát triển, nhưng con người trước hết là một thực thể văn hóa. Nền tảng của sự tăng trưởng bền vững ở ngay trong tiềm lực con người, ở năng lực trí tuệ và khả năng sáng tạo của con người, ở trong đạo đức và động cơ hành động của con người, tức là ở trong văn hóa. Nói đến con người là nói đến văn hóa; văn hóa là nơi thể hiện sức mạnh bản chất của con người, là công cụ điều chỉnh một cách tự nhiên nhất, trên phạm vi rộng lớn nhất, tinh tế nhưng cũng mạnh mẽ nhất đối với nhận thức, hành động và cách ứng xử của con người. Một khi nhân cách văn hóa là nội lực của con người, nó “thấm sâu vào tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người”, “xuyên suốt cơ thể xã hội”, thì triết lý của sự phát triển tất yếu phải được xây dựng trên nền tảng văn hóa. Điều này đã được thể hiện trong Nghị quyết của UNESCO về phát triển: “Khái niệm phát triển phải bao gồm các nhân tố kinh tế và xã hội, cũng như các giá trị đạo đức và văn hóa, qui định sự nảy nở và phẩm giá của con người trong xã hội. Nếu như con người là nguồn lực của phát triển, nếu như con người vừa là tác nhân lại vừa là người được hưởng, thì con người phải được coi chủ yếu như là sự biện minh và là mục đích của sự phát triển”, bởi vì “kinh nghiệm của hai thập kỉ vừa qua cho thấy rằng, trong mọi xã hội ngày nay, bất luận ở trình độ phát triển kinh tế nào, hoặc xu hướng chính trị và kinh tế nào, văn hóa và phát triển là hai mặt gắn liền với nhau”. Chính vì lẽ đó, năm 1988 UNESCO đã phát động “Thập kỉ thế giới phát triển văn hóa” và đã nhận được sự hưởng ứng rộng rãi của các quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, trong suốt tiến trình cách mạng, đặc biệt là từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập toàn cầu hóa, Đảng ta luôn ý thức sâu sắc về vai trò của văn hóa trong sự phát triển của xã hội. Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, trong đó khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [39, 55]. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò đặc biệt của văn hóa, Nghị quyết còn đề ra phương châm phải gắn kết những vấn đề văn hóa với những vấn đề kinh tế - xã hội: “Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật kỉ cương… biến thành nguồn nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển” [27]. Vấn đề càng trở nên cấp bách hơn trong giai đoạn hiện nay, trước một thực tế đáng lo ngại đã và đang diễn ra, đó là trong khi mức sống, thu nhập quốc dân ngày càng được cải thiện thì đạo đức xã hội lại đang xuống cấp ở mức đáng báo động, lối sống chạy theo đồng tiền đang chi phối và làm khuynh đảo nhiều giá trị, các tệ nạn xã hội đang gia tăng ngày càng phức tạp hơn… Đó là những biểu hiện đáng báo động của tình trạng mất cân đối giữa văn hóa và phát triển. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, trong bối cảnh Việt Nam ở giai đoạn quá độ hiện nay, nhân tố văn hóa cần phải được coi là nền tảng, là nội lực của sự phát triển.
1.1.2. Giới thuyết về văn hóa pháp luật
1.1.2.1. Khái niệm văn hóa pháp luật
Nếu văn hóa là một phạm trù xã hội để chỉ phương thức sống đặc trưng của một cộng đồng, biểu hiện thông qua sự ứng xử giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội, thì văn hoá pháp luật thuộc về lĩnh vực ứng xử xã hội, đó là tổng thể các hành vi thể hiện sự ứng xử của con người trong môi trường điều chỉnh của pháp luật, là sự hiện thực hóa năng lực tinh thần và ý thức của con người trong các hoạt động pháp luật. Do đó, văn hóa pháp luật là một lĩnh vực biểu hiện của văn hóa – văn hóa xứng xử với pháp luật. Nếu như các đặc trưng văn hoá của một cộng đồng xuất hiện cùng với sự hình thành tổ chức xã hội từ buổi sơ khai, thì văn hoá pháp luật hình thành muộn hơn, khi các qui tắc ứng xử của con người được đặt trong sự kiểm soát của pháp luật. Nếu văn hóa là một khái niệm đa diện và mơ hồ, thì văn hóa pháp luật với tư cách là một lĩnh vực biểu hiện đặc thù của văn hóa nên cũng là một khái niệm rất khó minh định. Bởi vậy, hiện nay trong khoa học pháp lý cũng như trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa chuyên ngành chưa có một quan niệm thật thống nhất về văn hóa pháp luật. Trước hết, về thuật ngữ, hiện nay ở Việt Nam người ta đang dùng hai thuật ngữ: văn hóa pháp luật và văn hóa pháp lý. Các tác giả như Lê Đức Tiết [65] Trần Ngọc Đường [20], Lê Vương Long [37] dùng thuật ngữ văn hóa pháp lý. Còn các tác giả Lê Minh Tâm, Nguyễn Thanh Thập, Vũ Thị Kim Dung [15, 134], Phạm Duy Nghĩa [47] thì dùng thuật ngữ văn hóa pháp luật. Vậy nên dùng thuật ngữ nào thì hợp lý hơn?
Trong Từ điển tiếng Việt, từ pháp lý có nghĩa là: “lý luận, nguyên lý về pháp luật”; còn pháp luật là “những qui phạm hành vi do nhà nước ban hành mà mọi người dân buộc phải tuân theo nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và bảo vệ trật tự xã hội”. Như vậy, thuật ngữ pháp lý thiên về phương diện lý thuyết, là những nguyên lý, nguyên tắc có tính phương pháp luận soi rọi và chi phối mọi hoạt động pháp luật cụ thể. Còn thuật ngữ pháp luật thiên về chỉ thực tiễn xã hội của đời sống pháp luật, đó là sự hiện thực hóa những tư tưởng, quan điểm, nguyên lý, nguyên tắc của pháp luật thông qua việc xây dựng và thực thi pháp luật của nhà nước cũng như các hành vi, lối sống và ứng xử của xã hội trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Bởi vậy, theo chúng tôi, dùng thuật ngữ văn hóa pháp luật hợp lý hơn, khi nó bao quát được thực tiễn xã hội của đời sống pháp luật với tất cả những biểu hiện phong phú và đa dạng của nó, và hiển nhiên, đằng sau thực tiễn xã hội của pháp luật là sự chi phối của những tư tưởng, quan điểm, nguyên lý, nguyên tắc của pháp luật.
Về khái niệm văn hóa pháp luật, trong công trình nghiên cứu Văn hóa pháp luật và phát triển văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác giả Nguyễn Thanh Thập [15, 47] và Vũ Thị Kim Dung [15, 134] đã đưa ra các định nghĩa như sau: “Văn hóa pháp luật là những giá trị nhân đạo, tiến bộ, tích cực của pháp luật trong xã hội, được thể hiện thông qua các bộ luật, các điều luật. Đồng thời các giá trị đó còn được thể hiện trong các hoạt động pháp luật, thẩm thấu vào nhận thức và hành động của mỗi cá nhân, biến thành nhu cầu thường trực trong ứng xử của họ”. Còn tác giả Lê Minh Tâm [15] thì cho rằng: “Văn hóa pháp luật là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật, bao gồm hệ thống qui phạm pháp luật được ban hành trong các thời kì lịch sử, những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lý, nguyên tắc, những tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói quen tích lũy được trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật…” [15, 147].
Như vậy, với các định nghĩa trên đây, khái niệm văn hóa pháp luật chỉ được hiểu đồng nghĩa với những mặt tích cực của đời sống pháp luật, theo đó, văn hóa pháp luật chỉ có được trong một môi trường pháp luật tiến bộ, lành mạnh và giàu tính nhân văn, trong đó pháp luật vừa có sức mạnh và tính hiệu lực cao, đồng thời cũng là một chuẩn mực ứng xử được tuân thủ một cách tự nhiên, tự nguyện.
Tuy nhiên, nếu quan niệm văn hóa là tất cả những gì thuộc về phương thức sống của một cộng đồng, với tất cả những ưu điểm và nhược điểm như là hệ quả tất yếu của sự thích nghi và ứng phó với các điều kiện tự nhiên và xã hội, thì văn hóa pháp luật cũng được hình thành và tồn tại một cách khách quan và tất yếu trong những môi trường xã hội được điều chỉnh bởi các qui phạm pháp luật. Trong môi trường điều chỉnh của pháp luật, hành vi pháp luật là hành động có ý thức của con người, đó có thể là hành vi hợp pháp, tức phù hợp qui phạm pháp luật, nhưng cũng có thể là hành vi bất hợp pháp, tức là trái với qui định của pháp luật. Dù hợp pháp hay không hợp pháp, tích cực hay tiêu cực, nhưng khi nó được thực hiện thường xuyên, phổ biến đến mức như một thói quen tự nhiên, tất yếu thì khi đó nó đã trở thành một ứng xử “văn hóa”. Do vậy, theo chúng tôi, cũng như văn hoá nói chung, khái niệm văn hóa pháp luật cần được hiểu không đồng nghĩa với những hành vi ứng xử tích cực với pháp luật mà còn bao hàm cả những hành vi ứng xử tiêu cực của cá nhân/cộng đồng trong những môi trường điều chỉnh của pháp luật.
Tóm lại, văn hóa pháp luật là sự ứng xử của con người trong môi trường những điều chỉnh của pháp luật, bao gồm tri thức, tư tưởng, quan điểm, thái độ, kinh nghiệm và thói quen, được tích lũy trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật, được biểu hiện qua văn bản pháp luật, hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật và hành vi ứng xử với pháp luật.
Vì văn hóa pháp luật là một bộ phận, một lĩnh vực biểu hiện của văn hóa xã hội, do đó, việc nghiên cứu văn hóa pháp luật của một quốc gia ở một giai đoạn cụ thể đòi hỏi chúng ta phải đặt nó trong mối tương quan và sự liên hệ với các lĩnh vực khác của văn hóa nói chung cũng như với mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội.
1.1.2.2. Biểu hiện của văn hóa pháp luật
Văn hóa pháp luật là một thành tố, một bộ phận, một lĩnh vực biểu hiện đặc thù của văn hóa xã hội, đó là lĩnh vực ứng xử với pháp luật, bởi vậy nó cũng mang những đặc trưng chung của văn hóa. Tuy nhiên, nói đến văn hóa là nói đến sự tự do, tự nguyện, là thói quen trong sự lựa chọn hành vi, trong khi đó thì pháp luật lại là công cụ điều chỉnh xã hội có tính áp đặt, cưỡng bức. Bởi vậy, nếu pháp luật được thực hiện dựa trên sự cưỡng bức thì nó chưa trở thành hành vi mang tính văn hóa. Nói cách khác, các hành vi ứng xử với pháp luật (dù tích cực hay tiêu cực) chỉ trở thành cái văn hóa khi người ta thực hiện các hành vi ấy trên tinh thần tự do, như một thói quen tự nhiên và tất yếu. Theo đó, một xã hội có nền văn hóa pháp luật cao là một xã hội mà trong đó các qui phạm pháp luật được đối xử như là chuẩn mực của đạo đức và lương tâm, tức là khi pháp luật không còn là một công cụ cưỡng bức mà được thực thi một cách tự nhiên, tự nguyện. Xét về mặt kết cấu, văn hóa pháp luật là bộ phận cấu thành của một nền văn hóa nói chung. Nếu các đặc trưng văn hóa của một dân tộc được biểu hiện qua các sản phẩm vật chất, các sản phẩm tinh thần, các thói quen trong lối sống và hành vi ứng xử, thì cũng có thể nhận diện văn hóa pháp luật qua các phương diện biểu hiện như: ý thức pháp luật, hệ thống và các thiết chế pháp luật, lối sống và hành vi ứng xử với pháp luật.
a) Ý thức pháp luật (luật trong suy nghĩ và thái độ): “Là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có; thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong trong hành vi xử sự của con người, cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội” [16, 421]. Ý thức pháp luật phản ánh:
- Trình độ hiểu biết về pháp luật, đó là các tri thức, tư tưởng, quan điểm về pháp luật, là trình độ nhận thức và mức độ am hiểu pháp luật của các tầng lớp nhân dân, kể cả bộ phận cán bộ công chức trong các cơ quan có chức năng trực tiếp áp dụng, thi hành và bảo vệ pháp luật. - Thái độ đối với pháp luật: đó là tâm lý, tình cảm, niềm tin, ý thức tôn trọng và tự giác chấp hành hay coi thường pháp luật; thái độ lạc quan / bi quan, hy vọng / thất vọng, quan tâm / thờ ơ, nhiệt tình / lãnh đạm... đối với pháp luật. Một xã hội có văn hóa pháp luật cao khi các thành viên xã hội có trình độ hiểu biết về pháp luật, có ý thức tôn trọng pháp luật, có thái độ tích cực phản ứng, lên án những hành vi vi phạm pháp luật. Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, bởi vậy nó chịu sự qui định của tồn tại xã hội, là sản phẩm và cũng là sự phản ánh những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Tuy nhiên, ý thức pháp luật cũng như ý thức xã hội nói chung, thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội. Bằng chứng là, khi tồn tại xã hội đã thay đổi nhưng ý thức xã hội nói chung và ý thức pháp luật nói riêng vẫn còn tồn tại dai dẳng như là những tàn dư của quá khứ được kế thừa trong hiện tại. Do đó ý thức pháp luật (đặc biệt là tâm lý pháp luật) là lĩnh vực mà ở đó truyền thống và các thói quen có một vai trò chi phối không nhỏ.
b) Hành vi ứng xử với pháp luật (luật trong hành xử thực tế): là những phản ứng, cách ứng xử được biểu hiện ra bên ngoài của con người trong các mối quan hệ mà pháp luật điều chỉnh. Hành vi pháp luật được biểu hiện dưới hai dạng: hành vi hợp pháp (phù hợp với qui định của pháp luật) và hành vi không hợp pháp (vi phạm pháp luật, bất chấp pháp luật, lách luật…). Hành vi ứng xử với pháp luật là sự biểu hiện ý thức pháp luật (thái độ, tình cảm, niềm tin) của mỗi cá nhân/cộng đồng trong môi trường điều chỉnh của pháp luật.
c) Văn bản pháp luật và hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật: bao gồm hệ thống văn bản pháp luật (luật trên giấy) và hệ thống tổ chức và hoạt động của các thiết chế lập pháp, hành pháp, tư pháp , đó cũng là các phương diện hiện thực hóa của ý thức pháp luật. Trong đó, hệ thống văn bản pháp luật vừa là sản phẩm, vừa là cơ sở để các thiết chế thực thi pháp luật có thể hoạt động; đến lượt mình, các thiết chế thực thi pháp luật lại là công cụ để hiện thực hóa các văn bản pháp luật. Theo đó, tính hiệu quả của hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật vừa là thước đo chất lượng của văn bản pháp luật, lại vừa thể hiện khả năng, trình độ vận dụng kiến thức và công cụ pháp luật của nhà nước trong việc quản lý xã hội.
Như vậy, để nhận diện một nền văn hóa pháp luật cần có một cái nhìn tổng hợp và bao quát từ tất cả các phương diện trên đây, bởi trong thực tế, ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật và hành vi pháp luật có mối quan hệ tác động qua lại, là tiền đề và hệ quả của nhau. Ý thức pháp luật có vai trò chỉ đạo việc xây dựng chính sách pháp luật và hệ thống pháp luật của nhà nước cũng như việc thực hiện hành vi pháp luật của cá nhân. Ngược lại, chính sách và hệ thống pháp luật có vai trò định hướng cho việc giáo dục ý thức pháp luật và hành vi pháp luật. Đến lượt mình, ý thức pháp luật và hành vi pháp luật lại tác động trở lại quá trình phát triển và hoàn thiện chính sách và hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật. Như thế, ý thức pháp luật và hành vi pháp luật vừa là thước đo, vừa là bằng chứng thể hiện hiệu quả xã hội của một chính sách pháp luật và hệ thống pháp luật.
1.1.3. Quan hệ giữa văn hóa với pháp luật
Trong cuộc sống, cả văn hóa và pháp luật đều có chức năng điều chỉnh hành vi của con người, bởi vì, mọi tổ chức xã hội đều chỉ có thể duy trì được sự tồn tại trên cơ sở của sự thỏa thuận giữa các thành viên trong cộng đồng. Sự thỏa thuận này được thể hiện dưới hai hình thức: luật thành văn - đó là luật pháp, và luật bất thành văn – đó là các qui tắc cộng đồng biểu hiện dưới dạng phong tục, tập quán, lối sống, thói quen…, được mọi người tuân thủ một cách tự giác đến mức tự nhiên, thậm chí như là vô thức - đó là văn hóa. Trong mối quan hệ này, “văn hóa có một ảnh hưởng không thể phủ nhận đối với pháp luật. Văn hóa chính là cuộc sống, do đó, việc xây dựng pháp luật, theo lẽ tự nhiên, phải dựa trên những kinh nghiệm văn hóa, tức là pháp luật phải có khả năng biến thành văn hóa để điều chỉnh cuộc sống” [2]. Chính vì vậy, kinh nghiệm văn hóa là nền tảng quan trọng nhất để xây dựng pháp luật.
Đồng thời, cũng chính trong lĩnh vực hoạt động pháp luật, văn hóa có khả năng hiện thực hóa những năng lực nhân tính, phát huy vai trò và tăng cường hiệu quả của pháp luật trong xã hội. Đến lượt mình, tính hiệu quả của pháp luật trong xã hội là chỉ số, là thước đo chất lượng Chân – Thiện – Mỹ của một nền văn hóa. Do đó, để hiểu pháp luật chúng ta phải hiểu thực tiễn xã hội của pháp luật. Hiểu thực tiễn xã hội của pháp luật cũng tức là chúng ta phải hiểu văn hoá chung của xã hội nơi có sự tồn tại của pháp luật. 1.2. Thực trạng của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay Trong tiến trình hội nhập và phát triển, Việt Nam đang nỗ lực để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội nhằm hiện đại hóa đất nước, trong đó xây dựng nhà nước pháp quyền được xác định là một mục tiêu quan trọng. Nhưng một thực trạng đáng báo động là văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay đang bộc lộ nhiều tiêu cực. Cách hành xử không thượng tôn pháp luật đang diễn ra hàng ngày, ở mọi nơi, mọi lúc, với mọi đối tượng, dưới nhiều hình thức biểu hiện đa dạng và phức tạp. Tình trạng này không chỉ diễn ra đối với một bộ phận không nhỏ người dân, mà cả các cơ quan công quyền, trong đó các cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật cũng không phải là ngoại lệ. Đây chính là một lực cản rất lớn trong việc thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong bối cảnh ấy, việc chỉ ra thực trạng văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay để từ đó tìm ra nguyên nhân và các giải pháp khắc phục trở thành một yêu cầu cần thiết và cấp bách.
Để nhận diện thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay, trong phạm vi hạn chế của đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, chúng tôi không có điều kiện về thời gian và kinh phí để thực hiện sự khảo sát bằng phương pháp điều tra xã hội học trên các nhóm đối tượng, mà chỉ căn cứ trên cứ liệu là những thông tin được đăng tải trên báo chí, bởi với hàng trăm tờ báo được xuất bản hàng ngày, kể cả báo in và báo điện tử, thì đây là một kênh thông tin phong phú, đa diện, phản ánh nhanh nhạy và kịp thời mọi diễn biến của đời sống hàng ngày. Khảo sát qua công cụ tìm kiếm Googole cũng cho thấy các cụm từ liên quan đến thái độ và hành vi ứng xử với pháp luật xuất hiện với một số lượng rất lớn trên các phương tiện thông tin báo chí. Điển hình là các cụm từ như: “không tuân thủ pháp luật”: 97.100 lượt; “coi thường pháp luật”: 1.280.000 lượt; “vi phạm pháp luật”: 23.500 lượt; “nhờn luật”: 19.600 lượt; “thách thức pháp luật”: 204.000 lượt; “luật rừng”: 142.000 lượt; “lách luật”: 187.000 lượt; “phép vua thua lệ làng”: 169.000 lượt; “chạy án”: 184.000 lượt, “nạn mãi lộ”: 41.000 lượt… Dù những con số này, do sự trùng lặp có thể là nhiều lần nên không thể là căn cứ để có thể đưa ra những kết luận chính xác, song dù có trừ đi một số phần trăm đáng kể do sự trùng lặp thì cũng không thể không coi đây là những “con số biết nói” về một thực trạng đáng báo động trong thái độ và hành vi ứng xử với pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khách quan, khoa học và sự tin cậy của thông tin, chúng tôi đã lựa chọn các bài báo tiêu biểu để khảo sát, dựa trên các tiêu chí sau đây: a) Những bài báo được đăng tải trên những tờ báo lớn, có uy tín trong công luận như: Pháp luật Việt Nam, Pháp luật TP HCM, Đời sống & Pháp luật, Vietnamnet, Dân trí, Lao động, Người lao động, Đại đoàn kết, Tuổi trẻ, Tiền phong, Thanh niên, VN Express, Sài Gòn tiếp thị, Doanh nhân Sài Gòn, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Nhà báo & Công luận, Gia đình & Xã hội,… b) Về thời gian: lựa chọn những bài báo phản ánh những sự việc xẩy ra trong thời gian khoảng ba năm gần đây, đặc biệt ưu tiên hơn cho những bài báo phản ánh những sự việc còn nóng hổi tính thời sự. c) Về nội dung: lựa chọn những bài báo phản ánh trực tiếp về thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật biểu hiện qua hai phương diện chủ yếu: 1) Ý thức và hành vi ứng xử với pháp luật; 2) Hệ thống và các thiết chế thực thi pháp luật. d) Về tính chất của sự việc: lựa chọn những bài báo phản ánh những sự việc nổi cộm được nhiều người quan tâm, gây nhiều phản ứng và bức xúc trong dư luận xã hội.
Với các tiêu chí trên, trong số cả hàng trăm bài báo đề cập đến những vấn đề liên quan, chúng tôi đã lựa chọn gần 200 bài báo làm cứ liệu để khảo sát nhằm đem lại một cái nhìn từ cận cảnh đến bao quát về mặt trái của thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay. Sau đây là phần nhận diện thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay qua việc tổng thuật các bài báo: 1.2.1. Ý thức và hành vi ứng xử không thượng tôn pháp luật Để nhận diện ý thức và hành vi pháp luật với tư cách là các lĩnh vực biểu hiện trực tiếp của văn hóa ứng xử với pháp luật, chúng tôi khảo sát vấn đề đối với cả hai đối tượng: người dân – đối tượng chịu sự điều chỉnh của pháp luật và các cơ quan công quyền – đối tượng chịu trách nhiệm thực thi pháp luật. Các cứ liệu khảo sát cho thấy, thực trạng về các hành vi ứng xử không tôn trọng pháp luật ở nước ta hiện nay đang diễn ra ở mức độ trầm trọng đáng báo động. Trong gần 100 bài báo được khảo sát, có thể thấy các cụm từ như: “không tuân thủ pháp luật”, “vi phạm pháp luật”, “coi thường pháp luật”, “nhờn luật”, “thách thức pháp luật”, “xử kiểu luật rừng”… xuất hiện với một tần suất rất cao để chỉ các hành vi ứng xử không thượng tôn pháp luật diễn ra ở cả hai phía – người dân và các cơ quan công quyền. Những hành vi này đã và đang diễn ra ở mọi nơi mọi lúc, mọi việc, nhưng tiêu biểu và điển hình nhất là trong các lĩnh vực như giao thông, quản lý xây dựng, ô nhiễm môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm, các hành vi bạo lực và ứng xử “luật rừng”… 1.2.1.1. Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông Nếu như ở các nước văn minh, các hành vi tham gia giao thông nhất nhất đều tuyệt đối tuân thủ pháp luật, thì ở nước ta hiện nay, văn hóa giao thông đang ở trong tình trạng hỗn độn đến mức khó kiểm soát, biểu hiện rõ qua việc gia tăng các vụ tai nạn giao thông hàng năm cũng như các hành vi vi phạm luật giao thông đã trở nên phổ biến đến mức trở thành bình thường. Trong bài báo Ý thức chấp hành luật giao thông kém do đâu? tác giả Bùi Văn Kiên đã chứng minh bằng những con số cụ thể về sự gia tăng của tai nạn giao thông ở nước ta: “Theo Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, tai nạn giao thông trong 10 năm qua liên tục gia tăng. Nếu như năm 1990, số người bị chết vì tai nạn giao thông là 2.368 người thì đến những năm 1995 - 1996 là 6.000 người và đến năm 2002, con số này đã lên đến 12.989 (và 30.772 người bị thương). Tương tự, 6 tháng đầu năm nay cả nước đã có 6.300 người chết vì tai nạn giao thông - tăng 371 người (5,9%) so với cùng kỳ năm ngoái (và làm bị thương 714 người). Như vậy, bình quân mỗi ngày cả nước có 35 người chết và 48 người bị thương vì tai nạn giao thông - hơn cả số người bị chết vì căn bệnh thế kỷ HIV. Cũng theo Ủy ban ATGT quốc gia, 83,8% số vụ tai nạn do người tham gia giao thông gây ra, trong đó: có 36% chạy quá tốc độ quy định; 17,2% tránh, vượt sai quy định; 13,9% thiếu chú ý quan sát; 6,8% do không đi đúng phần đường; 6,8% sau rượu bia điều khiển phương tiện và 3,1% do đi bộ qua đường không chú ý quan sát”. Từ đó tác giả bài báo bức xúc: “Công sức, tiền bạc đã được đổ nhiều cho những công việc được coi là cần thiết, từ làm luật, tuyên truyền, vận động, giáo dục ý thức tự giác trong ứng xử, đến mua sắm máy móc, thiết bị, xây dựng hoàn thiện bộ máy kiểm soát, trấn áp, răn đe… Nhưng rồi giao thông công cộng vẫn mang bộ mặt nhếch nhác, hỗn độn và chứa đầy bất trắc, rủi ro... (theo Việt báo). Về tình hình vi phạm luật giao thông, theo kết quả nghiên cứu của đề tài “Xây dựng ý thức thị dân ở TP.HCM trong tiến trình phát triển đô thị văn minh, hiện đại”, (do TS Nguyễn Hữu Nguyên Viện Nghiên cứu phát triển làm chủ nhiệm, công bố năm 2009) cho thấy: - Các hành vi vi phạm Luật giao thông phổ biến là: vượt đèn đỏ, đi ngược chiều, chạy quá tốc độ, không có bằng lái xe, không đội mũ bảo hiểm, chở quá số người quy định... - Về nguyên nhân vi phạm Luật giao thông: có 400 người được hỏi câu này và các lý do chủ yếu được đưa ra là: 1) Vì không thấy công an canh gác (71,8%); 2) Làm theo người khác (55%); 3) Vì vội công việc (54,3%); 4) Vì không bị phạt (28%); 5) Vì luật không nghiêm (27,8%); 6) Vì không biết Luật giao thông (23%); 7) Lý do khác (6,5%). Như vậy, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến vi phạm luật giao thông là do không thấy công an canh gác (chiếm 71,8% số người được hỏi). Nhưng điều đáng ngại hơn cả, theo nhóm nghiên cứu, có đến 70% số trường hợp bị xử phạt do vi phạm Luật giao thông rơi vào độ tuổi 20-30. Điều này đã cho phép nhóm nghiên cứu kết luận rằng, giới trẻ là đối tượng vi phạm luật giao thông phổ biến nhất, trong khi đây lại cũng chính là đối tượng có hiểu biết về Luật giao thông. Tuy nhiên, TS Nguyễn Hữu Nguyên bày tỏ: “Điều chúng tôi lo lắng hơn thế nữa là tình trạng cố tình vi phạm Luật giao thông ở nhóm người mặc nhiên buộc họ phải hiểu biết về luật lệ và quy tắc ứng xử khi lái xe. Vi phạm Luật giao thông ở tài xế taxi, xe buýt khá phổ biến, trong khi đây là nhóm người mà nghề nghiệp của họ buộc phải hiểu biết về Luật giao thông”. Nhóm nghiên cứu cho biết, qua phỏng vấn 30 tài xế taxi thuộc các hãng có thương hiệu, có đến 25 tài xế trả lời từng vi phạm Luật giao thông, như quay đầu xe, rẽ vào đường cấm... khi không thấy cảnh sát giao thông. Hậu quả sau đó là gây ra những vụ kẹt xe. - Về câu hỏi: vì sao có nạn kẹt xe ở thành phố? Có 400 người được hỏi, ngoài các lý do khách quan về đường sá, đèn tín hiệu... thì 62% trong số này nói nguyên nhân chủ quan là do có nhiều người chen lấn, vi phạm Luật giao thông. Còn đối với thái độ ứng xử khi xảy ra tình trạng kẹt xe, gần một nửa số người được hỏi trả lời là họ tìm mọi cách len lách khỏi nơi kẹt xe. Đó cũng là nguyên nhân trực tiếp khiến nạn kẹt xe càng trầm trọng hơn, khi mọi người tự bao vây lẫn nhau đến mức không còn lối thoát… - Về thái độ đối với các hành vi vi phạm Luật giao thông, nhóm nghiên cứu cho biết: chưa đầy 11% trong số người được hỏi phản đối các hành vi vi phạm Luật giao thông, song mức độ phản ứng cũng chỉ dừng ở mức nói vài câu phàn nàn “đi đứng thế à”, “không có mắt à”... Nhóm nghiên cứu giải thích là do tâm lý ngại rắc rối, sợ chuốc lấy phiền phức, thậm chí sợ bị đánh khi buông lời nhắc nhở, lên án những hành vi vi phạm giao thông. Trong khi đó số liệu điều tra cũng cho biết, có gần 30% số người trả lời mặc kệ trước những hành vi vi phạm của những người xung quanh. Điều đó cho thấy, những hành vi vi phạm Luật giao thông ở nước ta hiện nay dù rất phổ biến nhưng vẫn chưa bị cộng đồng lên án đúng mức, thậm chí làm ngơ, coi như việc không liên quan đến mình. Những kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây chỉ được thực hiện với đối tượng người tham gia giao thông. Vậy phải chăng tình trạng ứng xử tiêu cực, coi thường, vi phạm pháp luật giao thông ở nước ta hiện nay chỉ xảy ra ở đối tượng người tham gia giao thông, tức là từ phía người dân – đối tượng chấp hành, còn chủ thể chịu trách nhiệm thực thi pháp luật thì vô can? Trong số các bài báo mà chúng tôi khảo sát, có một tỉ lệ không ít những bài báo phản ánh về thực trạng một bộ phận người nắm quyền lực công, có vai trò cầm cân nảy mực trong việc thực thi pháp luật trong giao thông (trực tiếp là cảnh sát giao thông) lại chưa hề gương mẫu trong việc chấp hành luật, thậm chí còn góp phần làm cho luật giao thông bị vô hiệu hóa. Bằng chứng là nạn “mãi lộ” của cảnh sát giao thông được coi như là chuyện “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, bởi nó đã trở thành một căn “bệnh nghề nghiệp” mãn tính, gây bức xúc trong dư luận xã hội đã hàng chục năm mà vẫn chưa được giải quyết triệt để. Loạt bài “Mãi lộ ở cửa ngõ TPHCM” trên báo Người Lao động ra ngày 8 và 9-12-2009 đã nhận được nhiều tiếng nói đồng tình, cộng hưởng của công luận. Bạn đọc Bùi Văn Phước (Q3, TP.HCM) viết: “Nạn mãi lộ đã diễn ra từ lâu, cứ có tiền là được bỏ qua các lỗi vi phạm. Đây là một trong những nguyên nhân chính khiến người ta xem thường luật giao thông, chạy xe quá tải, phóng nhanh, vượt ẩu, lấn tuyến… gây bao cái chết thương tâm cho người khác… Lâu nay, khi nhân dân và báo chí phản ánh, lãnh đạo ngành công an đều nói rằng sẽ kiểm tra và xử lý nghiêm minh. Tuy nhiên, nhìn từ thực tế cuộc sống thấy rằng tệ nạn này ngày càng trở nên công khai trắng trợn. Như vậy, việc xử lý của cơ quan có thẩm quyền chưa đủ nghiêm khắc, nên vẫn có người tìm mọi cách để nhận mãi lộ”. Bạn đọc Lê Đức Minh (Biên Hòa, Đồng Nai) cũng đồng tình khi cho rằng, “việc xử lý của cơ quan có thẩm quyền chưa đủ nghiêm khắc, nên vẫn có người tìm mọi cách để nhận mãi lộ. Trong việc xử lý nạn mãi lộ, nếu người chỉ huy và ngành công an làm kiên quyết sẽ được nhân dân ủng hộ. Làm được như vậy, xã hội vừa trong sạch và nhiều cán bộ công an cũng không sa vào tha hóa, biến chất”. Cũng trong bài báo này, là nạn nhân của tệ nạn mãi lộ, bạn đọc Lâm Hải (công ty Vận tải ô tô số 2) bày tỏ sự bức xúc: “Chúng tôi là những tài xế xe tải thuộc công ty Vận tải ô tô số 2 (TPHCM). Nạn CSGT “làm luật” dọc đường lâu nay luôn là nỗi ám ảnh khôn nguôi trong giới lái xe. Có không ít CSGT dồn ép, kiếm cớ để buộc tài xế chung tiền hối lộ. Anh em chúng tôi rất hoan nghênh các phóng viên báo Người Lao động đã đưa lên mặt báo những vụ mãi lộ có địa chỉ, thời gian rõ ràng, cụ thể. Tuy nhiên, trước nay cũng đã có nhiều trường hợp tài xế và nhân dân tố cáo CSGT nhận hối lộ, nhưng việc xử lý không đi đến đâu khiến cho tệ nạn này vẫn ngang nhiên tồn tại”. Từ đó bạn đọc này khẩn thiết yêu cầu “xin đừng dung túng”, vì rằng “công việc tiếp theo không chỉ là giải quyết riêng những vụ việc vừa bị tố giác, mà chúng tôi mong muốn ngành công an hãy làm kiên quyết để dẹp bỏ những “con sâu”. Nếu như ngành công an xử nghiêm minh, công khai hình thức kỷ luật đối với những viên cảnh sát vi phạm, dân chúng sẽ rất hoan nghênh và tin tưởng. Khi CSGT nói không với việc nhận hối lộ thì anh em tài xế cũng không dám dùng tiền để khỏa lấp các lỗi vi phạm”. Các bài báo của các tác giả Bùi Văn Kiên (Ý thức chấp hành luật giao thông kém do đâu? (Tiền phong); TS Nguyễn Ngọc Điện (Bắt đầu từ nhà chức trách công,Sài Gòn Tiếp thị, thứ sáu, 04/09/2009); TS Nguyễn Hữu Nguyên (Văn hóa giao thông nhìn từ hai phía, báo Pháp luật TP. HCM, 26/3/2010)… đều phản ánh thực trạng về việc hành xử không thượng tôn pháp luật từ phía người thực thi pháp luật trong lĩnh vực giao thông và đều cùng quan điểm khi cho rằng, một khi người thực thi thiếu văn hóa (giao thông) thì làm sao đòi hỏi người chấp hành có được. Một khi người thực thi pháp luật giao thông mà lại không tôn trọng luật giao thông, thì tất yếu trong xã hội sẽ vẫn còn phổ biến niềm tin… vào tính không hữu hiệu của luật. Đó là nguyên nhân quan trọng góp phần tạo cho người dân thói quen không tuân thủ pháp luật, coi thường pháp luật. Chính việc hành xử không thượng tôn pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm làm cho người dân mất lòng tin vào sự nghiêm minh của pháp luật. Từ đó, các bài báo này đều khẳng định, cần phải coi văn hóa thực thi quan trọng hơn văn hóa chấp hành vì nó có vai trò định hướng, làm gương. Trong điều kiện chính người được giao nhiệm vụ thực thi pháp luật lại cũng là người tìm cách vô hiệu hoá luật thì việc người dân không tuân thủ luật là lẽ hiển nhiên. Bởi vậy, muốn pháp luật được tôn trọng một cách phổ biến, nghĩa là bằng ý thức công dân tự giác, thì trước hết nhà chức trách công phải nêu gương. Nếu những người thay mặt chính quyền thi hành công vụ không gương mẫu, tất cả những hành vi như nhận mãi lộ, nhận tiền mặt không xé biên lai, bán bằng lái xe, thông kiểm cả các xe cũ nát... sẽ góp phần làm cho các giá trị của văn hóa giao thông bị giảm sút nghiêm trọng. Từ quan niệm đó, TS Nguyễn Hữu Nguyên khẳng định: “Chỉ cần những gì đang có được thực thi nghiêm, đúng mức... thì trật tự, ý thức của người tham gia giao thông sẽ có một bức tranh khác với hiện tại” (Quốc Thanh, Tuổi trẻ, Thứ ba, 13/10/2009). 1.2.1.2. Vi phạm pháp luật trong quản lý xây dựng Vi phạm và xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý xây dựng những năm gần đây cũng là một điểm nóng, gây bức xúc dư luận bởi thái độ, hành vi coi thường pháp luật, thách thức pháp luật, vô hiệu hóa pháp luật đang diễn ra rất phổ biến, xét từ cả hai phía, đối tượng vi phạm và các cơ quan quản lý, xử lý vi phạm. Hàng trăm bài báo và các ý kiến phản hồi được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng thời gian gần đây đã bày tỏ sự bức xúc, bất bình của dư luận xã hội trước tình hình các công trình xây dựng trái phép đua nhau mọc lên theo công thức “giấy phép nói một đằng, thực tế diễn ra một nẻo” mà vẫn ngang nhiên tồn tại như một thách thức đối với luật pháp, với công luận. Trong loạt bài viết về chủ đề này (Thách thức luật pháp; Không thể chần chừ trong xử lý;“Lờn thuốc”vì xử phạt không nghiêm…), PGS, TS Nguyễn Ngọc Điện phản ánh thực trạng phổ biến về hành vi thách thức luật pháp này: “Chỉ được phép xây một căn nhà khiêm tốn nhưng lại cho ra đời cả một khối kiến trúc hoành tráng. Xã hội đã quen chứng kiến điều này, nhất là tại các đô thị lớn. Hiện tượng xây cất nhà không phép hoặc to hơn nhiều so với giấy phép có dấu hiệu tràn lan, đến nỗi người ta phải tự hỏi liệu trong lĩnh vực quản lý xây dựng dân dụng có tồn tại một quy tắc không thành văn, một thứ tục lệ theo đó giấy phép xây dựng bằng văn bản chỉ đơn giản là một thủ tục, nghi thức, chứ không phải là khung pháp lý giới hạn một cách nghiêm ngặt quyền xây dựng của chủ thể sống trong không gian chung. Chỉ có thể nói rằng xây dựng không đúng theo giấy phép thật sự là một vụ vi phạm pháp luật, đặc biệt là vi phạm trật tự công. Không thể nói rằng những người được giao trách nhiệm quản lý nhà nước về xây dựng không hay biết gì về sự tồn tại của những bất động sản không hợp lệ ấy. Theo lý lẽ thường tình, nhà xây dựng không phép tồn tại cũng có nghĩa rằng pháp luật xây dựng đã không được thực thi nghiêm chỉnh, nếu không muốn nói rằng nó đã bị coi thường”. Ở một bài báo khác, tác giả tiếp tục bày tỏ sự bức xúc: “Hơn 20 tòa nhà mọc lên ngay giữa trung tâm thành phố (HCM) được xác định là đối tượng của quyết định dỡ bỏ đối với phần xây dựng sai phép. Mệnh lệnh đã được đưa ra và tống đạt từ lâu đến những người có trách nhiệm thi hành, nhưng đến nay hầu hết công trình vẫn giữ nguyên hiện trạng như một thách thức ngang bướng đối với công luận. Nói khác đi, người ta chỉ có thể giữ lại những phần nhà xây dựng ngoài giấy phép đã được cấp trước đó bằng cách vô hiệu hóa các quy tắc pháp lý liên quan. Việc duy trì các công trình ấy hàm ý có một thông điệp đã được gửi đến toàn xã hội, theo đó luật pháp không được áp dụng, đúng hơn bị gạt ra một bên trong các trường hợp cụ thể này. Dứt khoát không thể hình dung một thông điệp như thế có thể lưu hành một cách công nhiên trong điều kiện xã hội được coi là có tổ chức” (Không thể chần chừ trong xử lý, Tuổi trẻ, 04/12/2010). Đặc biệt, vụ vi phạm ở công trình xây dựng cao ốc Pacific ở ngay giữa trung tâm quận 1, TP. HCM là một trường hợp điển hình khiến dư luận đặc biệt quan tâm. Cụm từ “cao ốc Pacific” được tìm thấy trên Googole với 79.100 lượt từ và hàng trăm bài viết bày tỏ sự bức xúc của dư luận về sự ngang nhiên coi thường pháp luật của chủ đầu tư và đơn vị thi công, giám sát, khi họ không những xây sai giấy phép mà còn phớt lờ những khiếu nại, cảnh báo về sự cố của các công trình lân cận. Tuy nhiên, sự thách thức dư luận và sự vô hiệu hóa luật pháp có lẽ được đẩy lên đến đỉnh điểm khi vụ việc kéo dài đã hơn hai năm qua, sau nhiều lần xử lý ầu ơ, lấy lệ, tới nay các tầng hầm đào sai phép vẫn chưa được lấp, thế mà văn bản mới đây của UBND TP lại quyết định “tha” cho các tầng hầm đã đào sai phép. Không những thế, để hợp thức hóa vi phạm này, chủ đầu tư lại còn được sở Xây dựng cấp phép xây dựng mới với quy mô 22 tầng (tăng 2 tầng so với giấy phép ban đầu) và có tới 5,5 tầng hầm. Bởi vậy, điều làm dư luận bức xúc hơn cả chính là ở cách hành xử của các cơ quan có trách nhiệm trong việc xử lý vụ việc. Hàng loạt bài viết được đăng tải trên các trang báo mà ngay các nhan đề cũng đã thể hiện sự phản ứng gay gắt của dư luận: Cao ốc Pacific: Phớt lờ tất cả, xử lý ầu ơ; “Lờn thuốc” vì xử phạt không nghiêm; "Tha" cho tầng hầm cao ốc Pacific: Cao ốc khác xây lố tầng hầm cũng phải "tha"; Kêu gào đòi lấp 2,5 tầng hầm cao ốc Pacific mới là trái luật; Đừng để luật nước thua kẻ vi phạm; Pháp luật đã quy định "giết" thì phải "giết", sao lại "tha"?; Xin đừng ngụy biện; "Tha" như thế khác nào khuyến khích vi phạm?; Cao ốc Pacific: 2,5 tầng hầm xây lố được tha; Cao ốc Pacific: vì sao xây sai phép lại được tồn tại?... Chưa nguôi bức xúc trước thực trạng có quá nhiều sai phạm trong việc xây nhà trái phép chưa được xử lý nghiêm minh thì hiện nay người dân TP. HCM lại đang được thử thách lòng kiên nhẫn trước thái độ đùn đẩy, không chịu trách nhiệm của các đơn vị liên quan về tình trạng xuất hiện hàng loạt “hố tử thần” gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông ngay giữa trung tâm thành phố. Theo báo cáo của Giám đốc sở GTVT TP.HCM Trần Quang Phượng thì từ khi “hố tử thần” đầu tiên xuất hiện (tháng 7.2010) đến nay, TP.HCM đã có 57 “hố từ thần”. Trong đó, 36 vụ sụp lún tại các vị trí không do công trình thi công và 21 vụ xảy ra trong quá trình thi công. Hàng loạt bài báo với những câu hỏi đầy bức xúc như:“Hố tử thần” tại TP.HCM: Nại đủ lý do chối trách nhiệm? Né trách nhiệm“hố tử thần”; Đùn đẩy trách nhiệm“hố tử thần”(Huy Thịnh, Tiền phong, 8/11/2010); “Hố tử thần”và“hố trách nhiệm” (Hạ Nguyên, Dân trí, 29/10/2010); “Hố tử thần”ở TPHCM: Cần xử lý hình sự? Mặc dù câu chuyện “hố tử thần” trở thành đề tài “nóng” trên bàn nghị sự trong buổi chất vấn tại kỳ họp thứ 19 HĐND TP. HCM khóa VII vào sáng 9.12, nhưng câu hỏi “Hố tử thần ở TP HCM - ai chịu trách nhiệm?” thì vẫn còn còn bỏ ngỏ, bởi “quả bóng trách nhiệm” vẫn đang được đá qua lại mà chưa hạ hồi phân giải. Trong bài “Hố tử thần” và “hố trách nhiệm”, tác giả Hạ Nguyên (Dân trí) khẳng định: “Theo tần suất xuất hiện ngày càng cao của “hố tử thần” trên địa bàn TP.HCM, “hố trách nhiệm” càng lộ rõ khi chưa có đơn vị nào đứng ra nhận trách nhiệm. Khi bị truy vấn thì các đơn vị liên quan đổ lỗi cho nhau. Song song với việc “hố tử thần” xuất hiện ngày càng nhiều là “hố trách nhiệm” ngày càng lớn”. Còn tác giả Trần Minh Quân trong bài “Hố tử thần” và “hố đen” trách nhiệm (Sài Gòn Tiếp thị, 2/12/2010) thì khẳng định: “Thực tế cho thấy, rất nhiều công trình được phát hiện sai phạm diễn ra trên hầu hết các địa phương đều có dấu ấn của tình trạng nhà thầu thi công “bắt tay” với giám sát để bỏ qua những lỗi do quá trình thi công gây ra. Đây thực sự là căn bệnh trầm kha, đáng sợ nhất và cũng là nguyên nhân của mọi nguyên nhân đã tồn tại rất lâu mà chưa có phương thuốc đặc trị hữu hiệu”. Theo ông Lê Hiếu Đằng - nguyên Phó Chủ tịch UBMTTQVN TP.HCM, tồn tại tình trạng trên là do sai phạm không được xử lý nghiêm theo nguyên tắc, bao che cho nhau, không ai truy cứu trách nhiệm, vì vậy, cần phải kiên quyết áp dụng các biện pháp chế tài mạnh tay (cách chức, xử lý hình sự) những cá nhân của đơn vị thiếu trách nhiệm thì mới hy vọng chấm dứt những “hố tử thần”. Còn luật sư Thái Văn Chung, văn phòng Đoàn Luật sư TP.HCM thì cho rằng, đơn vị từ nhà thầu phải chịu trách nhiệm khi thi công dự án, xảy ra tai nạn. Ngoài ra cơ quan quản lý phải chịu trách nhiệm khi công trình đã bàn giao mà xảy ra tai nạn. Luật sư Chung lý giải, do các biện pháp chế tài chưa đủ nặng khiến các đơn vị thi công vẫn “vô tư” vi phạm, pháp luật chưa được thực thi nghiêm minh khiến nhà thầu “nhờn luật” nên vẫn tiếp tục làm. 1.2.1.3. Vi phạm trong bảo vệ môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm Đây là một lĩnh vực mà ảnh hưởng của nó tác động trực tiếp đến sức khỏe và môi trường sống của mỗi người dân, mỗi gia đình cũng như của cả cộng đồng. Nhưng cũng ở đây, sự vi phạm pháp luật đang diễn ra một cách phổ biến, ngang nhiên, khi có vô số doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường đang tồn tại trên thực tế, nhưng lại vẫn không tồn tại đối với pháp luật. Có thể dễ dàng nhận thấy, vài ba năm gần đây, hầu như không ngày nào trên các phương tiện thông tin đại chúng lại không đưa tin về những vụ việc vi phạm pháp luật về môi trường. Từ các khu công nghiệp đến các nhà máy, xí nghiệp sản xuất lớn, nhỏ ở hầu hết các địa phương, ở những mức độ khác nhau đều thi nhau chôn trộm chất thải, xả chất thải gây ô nhiễm nguồn nước, đất đai, không khí… Các hành vi vi phạm pháp luật này thường diễn ra trong thời gian dài từ năm này qua năm khác mà chính quyền các địa phương chẳng mấy để tâm đến, kể cả khi có đơn thư khiếu nại cũng như sự phản ứng của những nạn nhân khốn khổ trong vùng. Khi vụ việc bị phát hiện thì việc xử lý thường rất nương nhẹ, chế tài xử phạt cũng rất “dễ chịu”. Cách xử lý theo kiểu “giơ cao đánh khẽ”, thậm chí “giơ” không cao và “đánh” còn rất khẽ khiến cho hành vi vi phạm không bị ngăn chặn mà cứ thế tiếp diễn, pháp luật mất hết tính răn đe. Và khi pháp luật đã mất hết tính răn đe, vi phạm pháp luật về môi trường đã và đang xảy ra tràn lan, ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan chức năng. Đặc biệt, vụ Vedan là một điển hình về tình trạng đùn đấy, đá qua đá lại “quả bóng trách nhiệm” giữa các cơ quan chức năng. Dư luận bất bình và phẫn nộ, vì hành vi vi phạm pháp luật của Vedan là vô cùng nghiêm trọng nhưng đã tồn tại tới 14 năm mới bị phát hiện. Tuy nhiên, điều đáng nói hơn là, khi hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng này được phơi bày trước công luận, khi hậu quả mà nó gây ra cho môi trường sống và mưu sinh của người dân ở ba tỉnh thành (TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa) là vô cùng nặng nề, thì việc xử lý hành vi vi phạm và việc truy cứu trách nhiệm của cơ quan quản lý để xảy ra sai phạm lại cũng gây bức xúc cho dư luận không kém. Trong suốt hai năm trời (2008 – 2010), báo chí đã tốn rất nhiều giấy mực để phản ánh sự bức xúc, phẫn nộ của dư luận về thái độ thờ ơ, vô cảm, cũng như cách hành xử đùn đẩy trách nhiệm của các cơ quan quản lý từ địa phương đến trung ương trong việc xử lý vi phạm. Trong bài: “Xử lý vụ Vedan “giết” sông Thị Vải: "Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay", tác giả Hồng Lê Thọ viết: “Với tang chứng, vật chứng rành rành thì việc niêm phong những hệ thống xả nước thải độc hại là đương nhiên, không cho chúng tiếp tục gây hại là điều phải làm... thế mà sau gần một tháng vẫn loay hoay trong biện pháp "trừng phạt", điều bắt buộc nhà máy tạm dừng sản xuất không thể thực hiện được. Khi bộ Tài nguyên Môi trường "đề nghị" tỉnh Đồng Nai ra quyết định buộc Vedan phải ngừng sản xuất thì bị Đồng Nai từ chối, cho rằng chưa đủ thủ tục pháp lý hay Bộ phải trực tiếp ra lệnh chứ không thuộc về trách nhiệm của Đồng Nai vì người quyết định xử phạt là Bộ TN-MT(!)…Trái banh "pháp lý" qua lại giữa hai đơn vị quản lý ngành (Bộ TN-MT) và hành chính (tỉnh Đồng Nai) còn kéo dài đến bao giờ khi nước thải ô nhiễm vẫn tuồn ra!” (Hồng Lê Thọ, Sức khỏe và đời sống, 3/11/2008). Những bài báo với các tiêu đề như: “Sông Thị Vải "bệnh" nặng nhiều năm, dân kêu cứu vô vọng!”; “Độc giả phẫn nộ với Vedan và thanh tra môi trường”; “Làm gì với Vedan?”; “Vedan và căn bệnh thường ngày của các cơ quan nhà nước”; “Vụ Vedan: Trách nhiệm của cơ quan quản lý tới đâu?”… đã xuất hiện rất thường xuyên và trở thành điểm nóng trên các trang báo trong một thời gian dài. Tác giả Đinh Thế Hưng trong bài “Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự và Vedan” viết: … “Trong vụ Vedan, vai trò của cơ quan chức năng dường như mờ nhạt. Mờ nhạt trong việc phát hiện chậm trễ, trong việc xử lý vi phạm và trong việc không hoàn thành nhiệm vụ đặt ra luật lệ để giải quyết. Pháp luật, cụ thể là luật tố tụng dân sự đã quy định rõ trách nhiệm khởi kiện của cơ quan nhà nước. Thế nhưng, không có cơ quan nào dũng cảm đứng ra đảm nhiệm việc này bởi lẽ ai cũng nghĩ "chắc nó trừ mình ra”. Ủy ban nhân dân tỉnh, sở Tài nguyên môi trường tỉnh Đồng Nai có sự dè dặt đầy khôn ngoan khi không đứng ra khởi kiện. Họ là những người cấp phép hoạt động, kiểm tra, giám sát, xử phạt hành chính Vedan sau đó lại là người đứng ra khởi kiện dân sự đối với Vedan. Có cái gì đó không ổn ở đây, nhất là khi sở này thay vì đàng hoàng khởi kiện thì họ lại vận động nông dân chấp nhận bồi thường, lấy "dĩ hòa vi quý” làm trọng. Quan còn ngại ra tòa thì dân nói "vô phúc đáo tụng đình" là điều dễ hiểu. Khi công quyền không nhiệt tình thì người dân buộc phải tự đi tìm công lý. Quá trình đi tìm công lý cho vụ Vedan đáng lẽ ra cơ quan nhà nước phải là người tiên phong nhưng thực tế họ lại chỉ vào cuộc khi người dân đã làm quyết liệt và cơ quan nhà nước lúc này vào cuộc với vai trò là người cổ vũ” (Vietnamnet, 18/09/2010). Qua những thông tin mà báo chí và các phương tiện thông tin đã phản ánh, có thể nói, Vedan chỉ là một vụ việc điển hình trong hàng trăm những vụ vi phạm luật bảo vệ môi trường đã và đang ngang nhiên tồn tại và thách thức dư luận và pháp luật hiện nay. Cùng với tình trạng báo động đỏ về ô nhiễm môi trường, nỗi lo an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) cũng là chuyện “biết rồi, khổ lắm” nhưng vẫn phải “nói mãi” khi các hành vi vi phạm pháp luật VSATTP đang ngày càng diễn ra phổ biến hơn, mức độ ngày càng trầm trọng hơn, theo đó là sự gia tăng số vụ ngộ độc thực phẩm hàng năm, gây tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe người dân, thách thức dư luận và pháp luật từ năm này qua năm khác. Từ chuyện nước tương, nước mắm, hàn the, thịt thối, mỡ bẩn, dư lượng thuốc trừ sâu trong rau quả... cho đến tình trạng tẩm ướp đủ loại hóa chất, phẩm màu công nghiệp vào thực phẩm,… Rồi ngộ độc tập thể xảy ra như cơm bữa, có vụ nghiêm trọng đến hàng trăm người. Trong bài báo “Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm: chưa yên tâm”, tác giả Trần Toàn cho biết: “Theo đánh giá của HĐND TP.HCM, thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm ở TP vào mùa giáp tết là rất đáng lo ngại. Các vi phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm xảy ra ở tất cả các khâu, trong tất cả công đoạn của quy trình chế biến sản xuất. Bác sĩ Trần Văn Ký, hội Khoa học kỹ thuật an toàn thực phẩm Việt Nam cảnh báo: Nhiều cơ sở sản xuất thực phẩm có quy mô vừa và nhỏ dùng thịt, cá hư, chất lượng kém như để sản xuất giò, chả hay để chế biến suất ăn công nghiệp. Có cơ sở dùng cả axít HCl và xút công nghiệp trong công nghệ sản xuất nước tương, nhưng chưa có ai bị xử lý. Thậm chí trong sản xuất bánh mì, bánh bông lan, bánh ngọt… người ta dùng cả các hoá chất tạo xốp, tạo nở trong chế biến cao su. Đây chính là nguồn gốc của ngộ độc thực phẩm mãn tính và hậu quả là người tiêu dùng sẽ bị ung thư, bệnh mãn tính về sau mà chưa có số liệu nào thống kê được. Riêng việc kinh doanh thực phẩm tại hàng chục ngàn quán ăn, nhà hàng đều chung một “mẫu số”: không tuân thủ các quy định về VSATTP. Trong khi đó việc quản lý chồng chéo giữa các bộ ngành khiến cho việc kiểm soát ATVSTP càng siết càng...lỏng. Ngay cả việc kiểm tra, giám sát, xử phạt nghiêm các sai phạm, có thái độ xử lý với chính quyền địa phương không làm tốt trách nhiệm, đình chỉ, thu hồi giấy phép của các cơ sở vi phạm cũng chỉ là "rung chuông". Nhiều ý kiến đánh giá, thực trạng ATVSTP tại các thành phố lớn như của Hà Nội, TP.HCM... đang xấu đi. Nhiều vụ ATVSTP được "khui" ra nhưng hầu như chưa có vụ nào xử lý hình sự. Ngay cả việc kiểm tra, giám sát, xử phạt nghiêm các sai phạm, có thái độ xử lý với chính quyền địa phương không làm tốt trách nhiệm, đình chỉ, thu hồi giấy phép của các cơ sở vi phạm cũng hô hào suông!”. Trong bài: “Quốc hội giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm: Người ít, tiền thiếu, trách nhiệm... cha chung”, tác giả Lê Kiên cho biết, vệ sinh an toàn thực phẩm với những gam màu loang lổ lo âu đã được đặt lên bàn nghị sự của Quốc hội (QH) trong cả ngày làm việc hôm (10-6-2010) và đã tường thuật lại cuộc truy vấn đầy bức xúc của các vị đại biểu về vấn đề này. Đại biểu Nguyễn Thị Kim Bé (Kiên Giang) nói rằng: “Biết ăn gì, uống gì để tránh ngộ độc?” là câu hỏi mà không ít người thốt lên như thế khi hàng ngày liên tục nghe các tin như sữa nhiễm độc, chả, giò có hàn the, thịt, cá ướp phân urê, rượu pha thuốc sâu, rau, củ, quả sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc kích thích, nước đóng chai nhiễm vi sinh v.v... vẫn bày bán khắp nơi. “Đây cũng là câu hỏi mà cử tri đặt ra với đại biểu QH” - bà Bé cho biết, và truy vấn các cơ quan chức năng: “Cử tri đặt ra câu hỏi các thực phẩm vi phạm VSATTP vẫn được bày bán khắp nơi, vậy trách nhiệm của cơ quan quản lý ở đâu trong khi quản lý lĩnh vực này có tới năm bộ liên quan? Có nghĩa là một con gà, một mâm cơm của người dân có tới năm bộ chức năng quản lý. Một công việc mà nhiều chủ thể quản lý sẽ dễ dẫn đến đùn đẩy, giống như câu nói dân gian là “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”. Việc thực phẩm không đảm bảo chất lượng mà vẫn nhập khẩu, ai chịu trách nhiệm thì bộ này đùn đẩy bộ kia, cuối cùng cũng không rõ trách nhiệm của ai”. Trên báo Nông nghiệp Việt Nam (ngày 24/11/2009), với bài báo nhan đề “Doanh nghiệp bất chính "lờn" thuốc, người dân lãnh đủ”, tác giả Đức Cường viết: “…Thực tế này đã được minh chứng qua hàng loạt vụ sai phạm liên quan đến thịt “bẩn” nhập khẩu vào Việt Nam thời gian qua. Ngay trong thời điểm dư luận đang vô cùng bức xúc về chuyện thịt nhiễm khuẩn, người ta vẫn thấy hàng trăm tấn thịt gây hại “vô tư” hành quân ra thị trường như trêu ngươi, chọc tức dư luận. Chưa bao giờ vấn đề mất VSATTP tại nước ta lại “nóng” như hiện nay khi một thực tế “bi đát” về nguồn thực phẩm mà hàng chục triệu người dân Việt Nam đang ăn hàng ngày bị phát hiện quá nhiều chất độc. Đã có một thời gian rất dài, chỉ vì lợi nhuận, nhiều doanh nghiệp đã nhập về Việt Nam hàng vạn tấn thịt “trời ơi” hết “đát”, mốc rêu và bốc mùi (sau đó được xử lý hóa chất) để đầu độc người tiêu dùng. Điều này tất yếu dẫn đến tình trạng trong suốt nhiều năm trời, người dân Việt Nam bị lừa dối, bị xâm hại sức khỏe nghiêm trọng mà không hề hay biết. Vụ việc chỉ bắt đầu bị phanh phui khi cơ quan chức năng kiểm tra lô hàng cánh gà nhập khẩu của công ty Trúc Đen và phát hiện công ty này đang “phù phép” để tung 13,5 tấn gà nhiễm khuẩn ra thị trường. Tại thời điểm kiểm tra đã có gần một nửa lô hàng cánh gà đông lạnh nhập khẩu từng xác định bị nhiễm khuẩn e.coli và coliform được mang ra bán cho người tiêu dùng. Sau vụ Trúc Đen, cơ quan chức năng tiếp tục phát hiện thêm 3 lô hàng tổng cộng 101 thùng bím dê phế thải với trọng lượng trên 1,5 tấn được khuyến cáo “không sử dụng cho người” nhập về bán cho người tiêu dùng Việt Nam. Tuy nhiên, phải đến khi vị “đại gia” nhập khẩu thịt đông lạnh lớn nhất nhì Việt Nam là Công ty Vinafood bị phát hiện đang "biến hóa" hàng trăm tấn thịt heo, xúc xích hết “đát” trong kho lạnh, đặc biệt là phát hiện “động trời”: hồ sơ gốc nhập khẩu thịt bên Mỹ và Canada không ghi hạn sử dụng, người tiêu dùng mới té ngửa rằng từ bao lâu nay niềm tin đã bị đặt nhầm chỗ. Trong suốt nhiều tháng ròng rã (từ tháng 7 trở lại đây), hàng chục doanh nghiệp “đen” bị phanh phui cách làm ăn chụp giựt, vô đạo đức, kiếm tiền bất chính trên sức khỏe người tiêu dùng. Một khối lượng thịt nhiễm khuẩn rất lớn lên đến 342 tấn (chỉ là phần nổi của tảng băng chìm) theo đó cũng bị tạm giữ trong “chiến dịch” muộn màng này. Điều đáng nói là, sau khi lượng thịt “bẩn” khổng lồ trên bị “bắt tận tay, day tận mặt”, không hiểu sao cơ quan chức năng cứ dây dưa xử lý mãi không xong. Sự chậm trễ đó đã tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp tự tung tự tác mang hàng “bẩn” bán tứ tán ra thị trường. Thông thường, khi doanh nghiệp phạm luật như vậy, cơ quan chức năng phải có biện pháp xử lý thật nghiêm khắc để răn đe. Tuy nhiên, chưa một doanh nghiệp nào bị xử nặng, chưa một doanh nghiệp nào bị khởi tố xử lý hình sự. Tất cả đều chỉ dừng ở mức xử phạt hình chính một số tiền nho nhỏ, “khuyến mãi” thêm vài câu nhắc nhở rồi…huề cả làng!” (Đức Cường, báo Nông nghiệp, 24/11/2009). Đây là tâm trạng âu lo, bức xúc của người dân khi phải là nạn nhân của tệ nạn làm ăn, kinh doanh gian dối, vô đạo đức, bất chấp pháp luật đang hoành hành trong xã hội hiện nay: “Hãy làm nhà tiêu dùng thông thái”, lời cảnh báo này nay trở thành như một khẩu hiệu dường như đã... lỗi thời, bởi dù có muốn và cố gắng “thông thái” cũng không thể thực hiện được. Đủ các hình thức gian dối, lừa đảo diễn ra ngày càng tinh vi hơn, khiến khó có người tiêu dùng nào đủ khả năng phòng tránh được tất cả. Không khó để kể: đổ xăng bị đong thiếu đã đành nhưng không thể nào biết được chất lượng xăng ra sao; mua thịt cá thì không rõ có bị ướp hóa chất, có dư lượng kháng sinh, có chất tăng trọng; mua rau thì gần như “nhắm mắt đưa chân” bởi khó tránh khỏi có dư lượng thuốc trừ sâu, phân hóa học; ngay cả mua kẹo đậu phộng hay kẹo hạt điều thì gần như luôn bị “làm mặt” với những hạt to, mẩy nằm bên trên, còn bên dưới toàn hạt lép... Những mối lo đó hầu như người tiêu dùng nào cũng phải đối mặt và gần như không sao tránh khỏi, đành phó mặc cho sự may rủi mà thôi. Không thể nói là các cơ quan chức năng đã bỏ mặc người tiêu dùng đối phó với các hình thức gian dối, bắt chẹt, lừa gạt của người bán, người cung cấp dịch vụ, nhưng hình như các cơ quan này tỏ ra bất lực trước các thủ đoạn gian dối ngày một tinh vi hơn của một bộ phận người bán hàng. Các lý do đưa ra cũng khá “khách quan”, như lực lượng quá mỏng, phương tiện thiếu thốn, các biện pháp chế tài thiếu sức răn đe... Chính vì vậy, các mối lo của người tiêu dùng gần như vẫn còn đó, thậm chí ngày càng trầm trọng hơn, thiệt hại ngày càng lớn hơn”. Từ thực trạng ấy, tác giả bài báo kiến nghị: “nếu chỉ kêu gọi suông về đạo đức, lương tâm của người bán hàng gần như không có tác dụng, nhất là khi đạo đức xã hội đang có biểu hiện xuống cấp. Do đó, pháp luật cần có các hình thức xử phạt đủ mạnh để răn đe, ngăn chặn tình trạng này. Chẳng hạn, cần có quy định phạt tiền gấp nhiều lần số tiền gian lận chứng minh được (như tình trạng các cây xăng đong thiếu), rút giấy phép kinh doanh vĩnh viễn, đến mức nào đó phải truy cứu trách nhiệm hình sự... Đồng thời, cần phát huy hơn nữa vai trò của các hội bảo vệ người tiêu dùng, nhất là khi Luật bảo vệ người tiêu dùng có hiệu lực...” (Trúc Giang, Người tiêu dùng có quá nhiều mối lo, Tuổi trẻ, 20/12/2010). Cùng với những bức xúc trên đây, hàng loạt các bài báo như: “An toàn vệ sinh thực phẩm: thực tế đáng sợ”; “Cao điểm vệ sinh an toàn thực phẩm: Đừng chỉ đánh trống, bỏ dùi!”; “Lại chuyện an toàn thực phẩm”;“Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm: chưa yên tâm”; “Quốc hội giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm: Người ít, tiền thiếu, trách nhiệm... cha chung”; “Xử lý vi phạm an toàn thực phẩm: Có chế tài nhưng không "dám" phạt?”… xuất hiện thường xuyên trên báo chí đã cho chúng ta thấy thực trạng tình hình vi phạm pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm hiện đang vượt ra ngoài tầm kiểm soát của pháp luật, khi các đối tượng và hành vi vi phạm đang ngày càng gia tăng, còn các cơ quan quản lí thì lại đang ngày càng chứng tỏ sự lúng túng và bất lực. Hậu quả là người dân phải tập sống chung với tiêu cực và các hành vi vi phạm pháp luật khi nó đang xảy ra hàng ngày, vô cùng phổ biến, ở mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực và ngày càng trầm trọng hơn, tần suất tin tức về tiêu cực xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng ngày càng cao hơn, gây tâm lý hoang mang lo ngại và bất an trong cộng đồng. 1.2.1.4. Sự gia tăng các hành vi bạo lực và ứng xử “luật rừng” Cùng với thực trạng đáng báo động về sự gia tăng các hành vi vi phạm pháp luật, gây nhiều bức xúc và bất bình trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội thì hiện nay, qua các phương tiện thông tin đại chúng, không khó để nhận thấy những hành vi bạo lực và kiểu ứng xử “luật rừng” đang ngày một gia tăng đến mức báo động, cả về tính chất nghiêm trọng cũng như quy mô, số lượng. Đó là minh chứng rõ nhất cho tình trạng pháp luật đang bị vô hiệu hóa. Càng lúc, xã hội càng phải chứng kiến nhiều hành vi bạo lực mới với mức độ ngày càng nghiêm trọng, nào là chuyện truy sát trên đường Láng-Hòa Lạc, chuyện bắn nhau trên đại lộ Đông-Tây, là sự nở rộ của dịch vụ thu hồi nợ kiểu “xã hội đen”, cho đến thực trạng gia tăng bạo lực học đường,… cho thấy việc giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng bạo lực ngày càng tăng về độ công khai cũng như mức độ dã man, nguy hiểm và tính phổ biến. Thử làm một phép thống trên kê mục Pháp luật của báo Người Lao động từ ngày 01 tới 24-9-2010, tức là chỉ mới hơn 3 tuần đầu của tháng, kết quả cho thấy: có 210 bản tin phạm pháp hình sự, trong số đó đáng lưu tâm nhất là có tới 69 tin liên quan tới án mạng (dưới các hình thức mưu sát,cố sát, ngộ sát…), tức là chiếm gần 33% tổng số tin. Có lẽ các báo khác cũng loan tải một lượng tin có tỷ lệ tương tự (ngoại trừ loại báo CAND và báo Pháp luật có thể có tỷ lệ cao hơn). Còn khi vào công cụ tìm kiếm Google , kết quả cho biết, cụm từ “chống người thi hành công vụ” có 259.000 kết quả; cụm từ “xử luật rừng” có 18.300 kết quả. Tất nhiên là trong số đó có nhiều kết quả trùng lặp, nhưng dù vậy thì những con số đó cũng phản ánh một thực trạng khó chối cãi là các hành vi ứng xử không theo chuẩn mực pháp luật đang tồn tại vô cùng phổ biến trong xã hội ta. Hàng ngày trên các đài, báo chúng ta vẫn đối mặt thường xuyên với những câu chuyện vi phạm pháp luật và giải quyết các mối quan hệ bằng luật “rừng” như: “Đòi nợ bằng luật rừng”; “Để dẹp bỏ luật rừng”; “Luật rừng còn tồn tại dài dài”; “Hành xử theo kiểu luật rừng”; “Dùng “luật rừng” thay luật tòa”; “Hình như đã hình thành "luật rừng" trong một bộ phận học sinh”; “Qua các vụ nữ sinh đánh nhau: "Luật rừng" đang thâm nhập vào trường học?”… Đặc biệt là các hành vi bạo lực hành hạ trẻ em đang diễn ra ngày càng phổ biến và trầm trọng hơn mà dường như đa phần vẫn ngoài tầm kiểm soát của pháp luật. Điển hình là vụ việc em Bình bị chủ quán phở nơi em làm thuê ngay giữa thủ đô Hà Nội hành hạ với những cực hình tàn bạo trong suốt 10 năm trời mới bị phát hiện và xử lí. Tương tự, gần đây hơn là vụ bé Hào Anh ở Cà Mau cũng bị chủ hành hạ suốt 2 năm trời với những ngón đòn tàn khốc, dã man như thời trung cổ: dùng búa, cây dầm bơi xuồng đánh vào đầu, đập vào lưng, ngực và tay chân; dùng kìm nhổ răng; tạt nước sôi vào người; lấy bàn ủi nóng chà vào lưng, mặt; dùng đũa sắt nung nóng đỏ đâm vào chân, lăn vào hai tay; buộc dây vào cổ nạn nhân lôi đi; bắt uống nước tiểu... khiến em bị mất 66,83% sức khỏe. Mặc dù kẻ gây tội ác trong hai vụ hành hạ trẻ em điển hình này đã bị pháp luật trừng trị, nhưng vẫn còn đó những câu hỏi làm nhức nhối những người có lương tâm: liệu rồi còn bao nhiêu em Bình hay cháu Hào Anh vẫn đang hàng ngày bị hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần mà pháp luật vẫn chưa với tay đến được? Tuy nhiên, có lẽ điều làm công luận bức xúc và thất vọng và mất niềm tin hơn cả là khi phải chứng kiến cách hành xử rất “xã hội đen” của những người mà chức trách của họ là nắm giữ cán cân công lí để đảm bảo trật tự và công bằng cho xã hội. Đó là thực trạng về các hành vi ứng xử kiểu “luật rừng” của những người nhân danh các cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật. Sau đây là một số vụ việc điển hình được phản ánh trên báo chí:
“Đánh ghen, bà chánh án TAND tỉnh “đại náo” quán karaoke” :
Chồng bỏ nhiệm sở đi nhậu và hát karaoke trong giờ hành chính, vợ cũng gác việc cơ quan đến tìm và hành hung nhân viên phục vụ của quán đến mức phải đi cấp cứu.
Hai ngày nay, người dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước xôn xao về “kỳ án đánh ghen” mà đôi vợ chồng trong cuộc là bà Nguyễn Lê Lan, đương kim Chánh án TAND tỉnh, và ông Trần Phụng, Phó trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy.
Trận ẩu đả xảy ra ngay trong giờ làm việc tại... quán karaoke Hưng Phát trên đường Phú Riềng Đỏ, xã Tiến Hưng, thị xã Đồng Xoài.
“Xử” không cần án!
Nạn nhân của vụ ẩu đả là nữ tiếp viên Nguyễn Hồng Linh (SN 1988, quê ở Cao Lãnh, Đồng Tháp). Chìa cho chúng tôi xem một bên đầu còn nguyên những vết xước tứa máu, Linh kể: “Lúc đó, em đang gắp đá thì bà Lan ập vào. Không nói không rằng, bà ta chụp một cái ly ném thẳng vào em nhưng không trúng, chiếc ly vỡ tan tành. Tức mình, bà Lan vớ chai bia trên bàn đập thẳng lên đầu em. Khi tỉnh dậy, em thấy mình đang nằm trong bệnh viện, bác sĩ nói phải khâu sống vết thương nên em sợ quá trốn về”(Theo Nguyễn Triều - Tân Tiến, Báo Người lao động,Thứ bảy, 29/3/ 2008). Bài báo “Công lý và các quan toà” của nhà báo Huy Đức lại viết về câu chuyện Chánh án toà án nhân dân huyện Phú Ninh, Quảng Nam, đã từng dùng câu liêm để giật đổ một bức tường nhà đang xây của ông Phạm Nhi hàng xóm. Khi ông Nhi chạy ra ngăn cản, ông Bằng đã kẹp cổ ông Nhi, còn vợ ông Bằng thì nắm tóc và dùng dép đánh ông Nhi vào mặt. Và tác giả bình luận: “Chưa nói về mặt pháp luật, một thường dân biết xấu hổ cũng sẽ không dùng “luật rừng” như cách mà bà Lan và ông Bằng đã dùng. Quan toà là những con người đòi hỏi phải có cả năng lực và phẩm giá. Làm sao thuyết phục là công lý đã được phán quyết, khi những người đưa ra những phán quyết ấy không đáng tin cậy cả về năng lực lẫn đạo đức cá nhân”. (Huy Đức, Công lý và các quan toà, Sài Gòn Tiếp thị Online, 14/01/2009) Còn bài báo “Khi chuẩn mực ứng xử không phải là luật” (Thời báo Kinh tế Sài gòn 06/5/2007) thì viêt về câu chuyện bà trung tá công an ở Hà Nội, bị mua chuộc nên đã chỉ huy động một băng nhóm xã hội đen đập phá nhà một người dân thường, vốn là hàng xóm với người mua chuộc công an và đang có tranh chấp về ranh giới đất với người này. Như vậy, ở ngay giữa thủ đô Hà Nội, một người đại diện cho pháp luật đã đặt quyền lực cá nhân lên trên pháp luật, đã sử dụng một thứ bạo lực phi pháp để giải quyết vấn đề xung đột lợi ích. Với hành vi này, tác giả bài báo bình luận: “bà trung tá công an đã loại bỏ pháp luật một cách có ý thức: đối với bà ấy, chuẩn mực là cách xử sự của người có nhiều tiền và có thế lực; công lý nằm trong tay người đó. Tổ chức cho một người thiết lập “công lý tư nhân”, bà trung tá lạnh lùng phủ nhận nền công lý do Nhà nước đại diện”. Đặc biệt, có thể nhận thấy trong thời gian gần đây, thông tin về các vụ công an sử dụng bạo lực với dân cũng đang xuất hiện ngày càng nhiều trên mặt báo, gây bất bình, phẫn nộ trong xã hội. Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch vừa qua đã lên tiếng báo động về tình trạng nhiều người dân bị tử vong khi bị công an bắt giữ. Trong thông cáo, tổ chức này đưa ra 19 vụ bạo hành của công an, gây thiệt mạng 15 người. Tất cả những vụ này đều được loan báo trên các cơ quan truyền thông Nhà nước trong 12 tháng qua. Việc công an có những hành vi thô bạo và sử dụng bạo lực với người dân chỉ vì những lỗi nhỏ trong vi phạm giao thông đã xảy ra khá phổ biến. Hành vi vi phạm luật giao thông thực ra không đến mức phải can thiệp bằng bạo lực, nhưng công an đã lạm dụng bạo lực, coi thường mạng sống của người dân, gây nên những thương tật hoặc thậm chí những cái chết oan uổng. Dư luận vẫn chưa quên vụ một thanh niên tên Nguyễn Văn Khương ở tỉnh Bắc Giang chở bạn gái đi mua đồ ăn, vì không đội mũ bảo hiểm nên bị công an bắt phải về đồn làm việc và đánh đập đến tử vong chỉ sau đó hơn nửa tiếng. Bức xúc trước cái chết oan uổng của người thân, gia đình anh Khương đã đưa thi thể anh lên UBND tỉnh Bắc Giang yêu cầu làm rõ nguyên nhân cái chết và hàng ngàn người dân đã đi theo dài hàng cây số, biến vụ việc thành một cuộc bạo động, giật đổ cả cánh cổng trụ sở UBND tỉnh Bắc Giang. Trong tháng 8 vừa qua, ở Thái Nguyên, nữ sinh viên tên Hoàng Thị Trà được bạn trai chở đi chơi bằng xe máy, cũng không đội mũ bảo hiểm nên bị hai công an mặc thường phục đuổi theo và bắn nhiều phát vào đùi phải nhập viện.
Cùng với những vụ nổi “đình đám” gây xôn xao dư luận ấy, xin dẫn ra đây một số vụ việc khác được đăng tải trên các báo cũng khiến dư luận bức xúc không kém: * “Phó trưởng Công an xã "làm việc" với dân bằng... đấm”:
…Khi triệu tập dân lên trụ sở, chưa tìm hiểu rõ ràng vấn đề, ông Hoàng Thanh Hùng, Phó trưởng Công an xã Minh Sơn (Đô Lương - Nghệ An) đã giơ nắm đấm nhằm mặt người dân "làm việc". Vụ việc đã gây bất bình với nhiều người dân” (xaluan.com, 18/12/2008). * “Điều chuyển công tác khác đối với một trung tá CSGT”:
Báo Lao Động số ra ngày 2.2.2010, đưa tin: “Bị CSGT dừng xe, một cô gái gãy răng”, phản ánh: Sáng 1.2, chị Đỗ Thị Hoa (sinh năm 1990, ở huyện An Dương, TP.Hải Phòng) đi xe máy đến khu vực ngõ Nam Phát I thì có 2 CSGT ra hiệu lệnh dừng xe. Cho rằng CSGT ra hiệu lệnh dừng xe với người bên cạnh nên chị Hoa vẫn lái xe chạy tiếp, thì bị một CSGT chặn lại, dùng gậy điều khiển giao thông đập vào mặt, làm chị bị gãy răng... * “Làm rõ vụ một công an đánh người”:
TT - Nhiều bạn đọc báo tin: “Ngày 18-12- 2010 tại trụ sở Công an P.Đông Hải, TP Phan Rang - Tháp Chàm (Ninh Thuận) một công an đã đánh một phụ nữ ngất xỉu, phải đi cấp cứu”. * “Công an đánh dân: Hệ quả của việc bao che có hệ thống”:
… Không thể tượng tượng nổi là những người sinh ra để bảo vệ dân mà có những hành vi côn đồ và coi thường pháp luật đến như vậy. Qua những vụ việc gần đây tôi cảm tưởng rằng một bộ phận không nhỏ cán bộ công an luôn tự cho mình cái quyền hành xử theo lối xã hội đen. Đây là hệ quả của việc ngành công an luôn cố tình bao che và xử lý không nghiêm các cán bộ vi phạm (Tuổi trẻ, 12/9/2007).
- “Dân "tố" công an hành hung người phải nhập viện”:
- Bác sỹ Nguyễn Ngọc Vân (Trưởng khoa Hồi sức cấp cứu, bệnh viện Đa khoa Hợp lực – Thanh Hóa) cho biết, khoảng hơn 18h ngày 6/11, bệnh nhân Lưu Đình Tăng (20 tuổi, thôn Đông Khê, xã Hoằng Quỳ, huyện Hoằng Hóa) được 2 cán bộ Công an huyện Hoằng Hóa đưa đến trong tình trạng bất tỉnh. (08/11/2010). Có lẽ cũng không cần bình luận gì nhiều về những sự việc trên đây, bởi tự nó đã có thể nói lên những gì cần nói. Tuy nhiên, một suy luận giản đơn mà ai cũng có thể tự rút ra, đó là, ngay những người hiểu rất rõ pháp luật, hơn nữa lại đang nắm giữ vai trò thực thi pháp luật mà lại hành xử bất chấp pháp luật như vậy thì việc tồn tại phổ biến của “luật rừng” thay luật pháp như những câu chuyện được kể sau đây cũng là điều dễ hiểu. Về thực trạng cách hành xử theo “luật rừng” đang tồn tại phổ biến như một vấn nạn nhức nhối trong xã hội hiện nay, trong bài báo Dẹp bỏ“luật rừng”, trên báo Tuổi trẻ, 12/ 6/ 2007), GS Tương Lai đã bày tỏ thái độ bức xúc: “… Thật đáng xấu hổ, đáng phẫn nộ vì trong khi đang hướng tới một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh chúng ta vẫn đang phải chứng kiến quá nhiều những hiện tượng "đầu gấu" nơi bến xe, bãi chợ, nơi sinh hoạt công cộng, chốn đường xa, khuất nẻo, nơi mà những ứng xử "mạnh được yếu thua", nơi luật rừng thắng thế. Pháp luật đã trừng trị nhiều tên đầu gấu, tòa án cũng đã đưa ra xử, tội danh "đầu gấu" đã từng được tranh tụng, và bị can đã vào tù. Nhưng liệu có phải vì sức răn đe chưa đủ mạnh hay là vẫn còn những thế lực "bảo kê" với khá nhiều lý do phức tạp khó nói hết, nên nạn đầu gấu vẫn là nỗi ám ảnh trong đời sống xã hội? Đó là nỗi ám ảnh về thiếu an toàn khi đi vào những nơi, sinh hoạt ở những chỗ, những địa bàn mà đầu gấu có khả năng chiếm lĩnh. Những địa bàn ấy, oái oăm thay có khi nằm ngay ở những nơi không thiếu những sức mạnh để trấn áp và loại bỏ nếu người ta muốn, như người dân lương thiện muốn. Thì ra, tuy cả rừng luật đã và đang được tiếp tục xây dựng và ban hành, nhưng nhiều khi, nhiều chỗ vẫn bị luật rừng qua mặt”. Trong bài báo “Ứng xử theo luật rừng” tác giả Lê Thanh Phong, (Báo Lao động, 10/04/2009) viết: Liên tục xảy ra ba câu chuyện báo chí bị xử theo "luật rừng". Một chuyện do côn đồ xử, một chuyện do chủ doanh nghiệp ra tay, và một chuyện do cán bộ chính quyền "ứng xử". Chuyện thứ nhất liên quan đến một nhà báo của một cơ quan báo chí tỉnh Quảng Nam, chuyên điều tra các vụ phá rừng. Nhà báo dũng cảm này kiên trì theo đuổi, đưa tin với quyết tâm ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật của lâm tặc. Những thông tin của anh thực sự mang sứ mệnh "đâm mấy thằng gian". Tuy nhiên, khi "bút chẳng tà" thì anh đã bị kẻ gian hạ độc thủ. Trên đường đi công tác, tối 3.4, anh bị một nhóm côn đồ đâm vào mặt. Theo điều tra ban đầu, nhóm côn đồ này do lâm tặc thuê hành hung. Chuyện thứ hai cũng xảy ra ngày 3.4, một nhóm phóng viên phát hiện nhiều nữ nhân viên massage bị giam lỏng ở khách sạn Ngân Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Nhờ sự đeo bám và thông tin của các anh, cơ quan chức năng vào cuộc và giải thoát cho 7 nữ nạn nhân. Sau đó, nhóm phóng viên trở lại để làm rõ thêm vụ việc thì bị giám đốc khách sạn tịch thu giấy giới thiệu, máy ảnh, mắng chửi và gọi nhân viên đến với ý định sẵn sàng hành hung phóng viên. Chuyện thứ ba, Phòng Văn hoá - Thông tin của huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An tự đưa ra "luật báo chí" riêng, đó là các cơ quan, người dân trên địa bàn huyện, thị trấn không cần làm việc với phóng viên nếu như phóng viên không có giấy giới thiệu của Phòng VHTT… Bọn lâm tặc phá rừng thuê người hành hung nhà báo. Hành vi này vi phạm pháp luật, nhưng nó xuất phát từ một nhóm côn đồ. Đã dám phá rừng thì họ dám xử theo "luật rừng", điều đó không có gì phải ngạc nhiên. Một giám đốc khách sạn là một chủ doanh nghiệp, có nhận thức pháp luật và ít nhiều hiểu biết văn hoá ứng xử, nhưng vì tức giận nhất thời, đã có hành động cũng khá "luật rừng" với các nhà báo. Hành vi đó thật đáng ngạc nhiên và khó chấp nhận đối với một doanh nhân. Nhưng kinh ngạc hơn là một ông trưởng phòng VHTT của một huyện lại dám cả gan soạn ra "luật báo chí" riêng để ứng xử với báo chí. Quy định bất chấp pháp luật của ông trưởng phòng cũng là một loại "luật rừng". Có thể ông không cố tình vi phạm Luật Báo chí, nhưng điều này cho thấy trình độ cán bộ cơ sở còn rất hạn chế. Với báo chí mà còn như vậy, khó có thể tin tưởng ông trưởng phòng ứng xử đúng luật với người dân”. Tác giả Nguyễn Quang A thì phản ánh về tình trạng dịch vụ thu hồi nợ kiểu “xã hội đen” đang tồn tại phổ biến hiện nay: Những thông tin công an triệt phá các công ty thu hồi nợ sử dụng những biện pháp “luật rừng”, “dao búa” để cưỡng chế thu hồi nợ làm dư luận nóng lên (xem loạt bài “Dịch vụ thu nợ kiểu... xã hội đen”, Tuổi trẻ, 12 và 13/6/2007). Riêng ở Hà Nội có hơn 100 công ty dịch vụ thu hồi nợ được đăng ký, trong số đó một số công ty hoạt động theo kiểu xã hội đen và đã bị công an khởi tố. Dư luận bức xúc với cách hành xử theo “luật rừng”, nhưng làm thế nào để dẹp bỏ “luật rừng”? (Nguyễn Quang A, Để dẹp bỏ “luật rừng”, Việt Báo, 15/6/ 2007). Truy tìm nguyên nhân của thực trạng gia tăng các loại tội phạm và ứng xử kiểu “luật rừng”, TS Nguyễn Ngọc Điện chỉ ra nguyên nhân từ sự bất lực của bộ máy thực thi pháp luật và cho rằng đây là một thách thức đối với quyền lực công. Câu hỏi mà ông đặt ra cũng đồng thời là câu trả lời: có phải “Xã hội có tổ chức đang bị thử thách? “Bắt được người trộm chó, thay vì giải giao cho nhà chức trách, người dân chủ động giữ lại kẻ trộm và phương tiện hành sự, rồi tổ chức tiêu diệt cả hai với sự trợ lực của những công cụ trừng phạt sẵn có, như gậy gộc, xăng dầu, rơm rạ...”. Được hỏi tại sao lại làm như vậy trong điều kiện có cả một hệ thống pháp lý và bộ máy công lực đang vận hành, những người trong cuộc trả lời với ý đại loại: bức xúc do thấy việc xử lý theo pháp luật của nhà chức trách đối với kẻ xấu, kẻ ác quá hời hợt và không đủ sức răn đe, người ta phải tự đặt và áp dụng cách xử lý mạnh hơn để thay thế, hòng đòi lại sự công bằng đã bị đánh cắp. Trên tất cả, muốn có được ý thức tôn trọng pháp luật phổ biến, một trong những điều kiện cốt yếu đối với trật tự xã hội bền vững, thì bản thân hệ thống chuẩn mực ứng xử và các thiết chế nắm giữ công lực phải tạo được sự tin tưởng như là chỗ dựa vững chắc của mỗi người, mỗi chủ thể trong quá trình giao tiếp xã hội. Ở các nước tiên tiến, công dân được giáo dục từ tấm bé để có được ý thức coi luật pháp, chuẩn mực khách quan là căn cứ xác lập các quan hệ giữa người và người; coi quyền lực công là người tổ chức cuộc sống trong không gian chung, đặc biệt là trong trường hợp cần giải quyết mâu thuẫn, khủng khoảng dập tắt xung đột giữa người và người. (Xã hội có tổ chức đang bị thử thách? Vietnamnet, 09/9/2010). Cùng quan điểm, tác giả Lê Minh Tiến trong bài “Con người hung dữ hay xã hội bất minh?” khi truy tìm căn nguyên do đâu mà tệ nạn bạo lực phát triển đã chỉ ra nguyên nhân từ sự mất lòng tin vào tính hiệu lực của pháp luật. Tác giả bài báo cho rằng: “…Lòng tin bị giảm sút có thể xuất phát từ sự chậm trễ của cơ quan hữu trách trong việc can thiệp giải quyết các tranh chấp, sự thiên vị trong việc áp dụng luật lệ, sự làm ngơ trước những nguy cơ đã được cảnh báo. Và khi người ta đã không có niềm tin dựa vào pháp luật thì theo họ, tự giải quyết bằng bạo lực sẽ trở thành cách thức hữu hiệu nhất để giải quyết tranh chấp, để giành lại phần thắng hay sự công bằng một cách nhanh chóng. Bạo lực có đất phát triển sẽ kéo theo sự phát triển các băng nhóm đâm thuê chém mướn, các đường dây buôn bán vũ khí… Thiết nghĩ, nếu bộ máy tư pháp và hành pháp ở các cấp chính quyền cơ sở tỏ rõ sự hiệu quả, nhanh nhạy và công minh trong việc điều hành giải quyết các vụ tranh chấp sẽ góp phần quan trọng giảm bớt tệ nạn sử dụng vũ lực trong xã hội” (Lê Minh Tiến, Thời báo kinh tế Sài Gòn, 28/3/2010). Tác giả Nguyên Nhung trong bài Bước hụt trong văn hóa ứng xử thì nhìn nguyên nhân của tình trạng gia tăng bạo lực và ứng xử “luật rừng” từ cả hai phía, chính quyền và công dân, và cho rằng, do “công dân Việt Nam chưa làm quen với tinh thần thượng tôn pháp luật. Và cơ quan công quyền cũng chưa gánh đủ cái gánh nặng mà người dân giao phó”. Thực trạng gia tăng các hành vi bạo lực và ứng xử kiểu “luật rừng” như đã chỉ ra trên đây là sự cảnh báo về vai trò của pháp luật và ý nghĩa của việc tạo ra một môi trường pháp lý nghiêm minh làm điểm tựa căn bản cho sự vận hành guồng máy xã hội là quan trọng và bức thiết đến nhường nào trong bối cảnh hiện nay. 1.2.2. Tính hiệu lực của các thiết chế thực thi pháp luật và chất lượng văn bản pháp luật
Một hệ thống pháp luật chỉ có thể được vận hành dựa trên hệ thống văn bản pháp luật và các thiết chế thực thi pháp luật. Các thiết chế thực thi pháp luật là một hệ thống bao gồm:
a) Các cơ quan nhà nước được giao những quyền hạn và trách nhiệm thực hiện các chức năng soạn thảo, phê chuẩn, ban hành pháp luật.
b) Các hoạt động đưa pháp luật vào thực tiễn đời sống, bao gồm việc thực thi pháp luật của các cơ quan hành pháp.
c) Các hoạt động của cơ quan tư pháp trong vai trò xét xử các hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo cho việc thực thi pháp luật được nghiêm minh. Các thiết chế pháp luật được xây dựng dựa trên các qui định của pháp luật, chịu sự chi phối của pháp luật, là công cụ quan trọng để bảo vệ pháp luật nhưng đồng thời cũng góp phần rất quan trọng trong việc xây dựng các giá trị văn hóa pháp luật và hiện thực hóa những giá trị ấy trong đời sống.
1.2.2.1. Thực trạng chất lượng của bộ máy công quyền
Có thể nói, mỗi mắt xích trong bộ máy nhà nước đều hết sức quan trọng để một xã hội phát triển ổn định, hài hòa, lành mạnh và tích cực. Tuy nhiên, trong nhiều mắt xích mà mỗi khâu đều có vai trò quan trọng trong vị thế của nó thì hệ thống và các thiết chế thực thi pháp luật có một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi kinh tế không thể phát triển, chính trị không thể ổn định và nền tảng đạo đức xã hội không thể duy trì nếu công lý không được thực thi. Nhưng công lý lại không tồn tại trong những thuyết lý chung chung, mơ hồ mà nó được thiết lập bắt đầu từ niềm tin của dân chúng vào những con người cụ thể trong vai trò đại diện cho công lý. Nói cách khác, công lý không tồn tại ở những xã hội và từ những con người không đem lại niềm tin cho công chúng. Bởi vậy, có thể nói, nền văn hóa pháp luật của một quốc gia không chỉ biểu hiện, mà còn phụ thuộc vào tính hiệu lực của các thiết chế thực thi pháp luật, trong đó trước hết bắt đầu từ chất lượng của bộ máy công quyền với nguồn lực con người là nhân tố quyết định. Để tạo dựng được niềm tin của nhân dân vào pháp luật và thể chế nhà nước, bộ máy công quyền trước hết phải minh bạch, với nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Tuy nhiên, gần đây niềm tin của nhân dân vào bộ máy công quyền đang ngày càng suy giảm trước những hiện tượng tiêu cực đang diễn ra phổ biến, trở thành “quốc nạn” ở các cơ quan công quyền hiện nay như chạy chức, chạy quyền, tham nhũng, hối lộ, lạm dụng quyền lực để nhũng nhiễu, gây khó khăn, tác hại nhiều mặt đến đời sống xã hội. Kết quả ban đầu của cuộc khảo sát trực tuyến về cải cách hành chính do UNDP phối hợp với VietNamNet thực hiện gần đây cho thấy, gần 70% người dân khi được hỏi đã trả lời rằng họ phải đưa thêm tiền mới giải quyết được công việc liên quan đến thủ tục hành chính (Cứ “lót tay” việc mới “chạy”, Vietnamnet,14/10/2010).
Ông Nguyễn Mạnh Quyền, đại diện Uỷ ban Pháp luật QH đã nhận xét rằng: “Công chức nhận tiền dễ dàng, nhận nhiều thấy quen, không có thì thấy thiếu”. Còn nguyên Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc trong ý kiến phát biểu tại Quốc hội ngày 3/11/2006 đã cảnh báo thực trạng: "Người dân đang xem tiêu cực trong lực lượng cảnh sát giao thông như điều đương nhiên. Với ngành tòa án hiện tượng "chạy án" đã không còn là chuyện hiếm. Người dân phải tập chung sống với tiêu cực". Từ thực trạng ấy ông đề nghị Quốc hội phải có biện pháp chấn chỉnh tình trạng tha hóa trong của một bộ phận cán bộ, công chức. Ông nói: "Tôi cảm nhận đã đến lúc Quốc hội phải đặt lên bàn nghị sự này, không thể tránh, phải nhìn thẳng sự thật". Cũng trên diễn đàn Quốc hội, đại biểu Trần Đình Long thẳng thắn nhìn nhận: "Vi phạm pháp luật ngày càng tăng, nhất là tham nhũng. Loại hình tội phạm này đang trở nên phổ biến, diễn ra liên tục trong nhiều năm". Theo ông Long, nguyên nhân của tình trạng báo động trên là bởi "đang diễn ra hiện tượng tha hóa trong một bộ phận công chức". Đơn cử như trong lĩnh vực quản lí đất đai – một trong những lĩnh vực đang nảy sinh nhiều tệ nạn tiêu cực hiện nay, nhà báo Đào Tuấn trên Blog Tuanddk cho biết: “62% hộ phải chi, cao nhất là 80 triệu đồng, để được giải quyết nhanh hồ sơ đất. 30,7% thừa nhận “phải bồi dưỡng” cho cán bộ. 33% doanh nghiệp nói phải có “quà lót tay” hoặc “chi phí không chính thức”. Nhưng quan trọng nhất là hai con số: 24,4% cán bộ địa chính thừa nhận có nhận môi giới, từ một số việc cho tới “dịch vụ trọn gói”. 12% cán bộ thừa nhận “bắt tay” với trung gian và 25% trung gian cho biết có “hợp tác với cán bộ”. Những khảo sát của Thanh tra Chính phủ cho thấy 84% số hộ chuyển nhượng nói hồ sơ của mình được cho là “có trục trặc”. Để giải quyết, người chấp nhận gợi ý thì trực tiếp gặp cán bộ xin làm dịch vụ. 46% người khác đi qua cửa trung gian. Tiền nào cũng phạm luật, chỉ khác một đằng là đưa tiền trực tiếp, một đằng đưa gián tiếp. Nếu không chấp nhận “làm luật”, người dân sẽ gặp phải sự nhũng nhiễu kéo dài. Một kỷ lục thời gian về việc hộ sơ gặp trục trặc, bị lưu giữ đã được nêu ra: 3.000 ngày. Chính sự nhũng nhiễu của cán bộ đã tạo ra tầng lớp trung gian mà dân chúng vấn gọi là cò. GS Đặng Hùng Võ, nguyên thứ trưởng bộ Tài nguyên và môi trường dẫn khảo sát 600 ý kiến của cả người dân, các doanh nghiệp và cán bộ để chỉ ra rằng tham nhũng trong đất đai liên quan mật thiết đến “cò đất”. “Cò đất” sinh ra từ chính sự nhũng nhiễu, từ tham nhũng và nó tác động ngược trở lại, khiến cho trục trặc liên tục phát sinh, nhũng nhiễu trở thành căn bệnh cố hữu và tình trạng tham nhũng thêm nặng nề. Không phải vô nguyên cớ mà người dân đã tổng kết rằng ở đâu có tham nhũng, ở đó có cò. Không phải ngẫu nhiên và các vụ khiếu tố liên quan đến đất đai, với bình quân 10 vạn vụ mỗi năm, luôn chiếm trên 80% số lượng về đơn thư. Có lẽ chưa có ở lĩnh vực nào, những chỉ số tham nhũng được nói tới rõ như trong lĩnh vực đất đai. Câu chuyện tham nhũng có nghiêm trọng hay không? Có đến mức độ “khâu nào cũng có thể tham nhũng”, “ở đâu cũng có tham nhũng” hay không? Có lẽ tự những con số trên đã nói lên tất cả. Nhưng điều đáng quan tâm hơn cả là khía cạnh công khai của những khoản tiền “chi phí không chính thức”…. 24% cán bộ nhận tiền làm dịch vụ cho chính công việc mà họ đã được trả lương để có nghĩa vụ phục vụ nhân dân… Bởi khi đã dám công khai thừa nhận thì có nghĩa họ cho đó là việc bình thường, là lệ phí cần phải có. Tình trạng 12% cán bộ nhận “bắt tay” với trung gian thậm chí còn cho thấy đã có sự móc nối rất rõ ràng. Và vì vậy, có thể tin rằng đất đai là lĩnh vực nhân dân gặp phải sự nhũng nhiễu nhiều nhất mà con số 85% người dân mất chi phí rất cao khi làm thủ tục liên quan đến cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…”.
Tuy nhiên, một thực tế không kém phần nguy hiểm hơn là, các vụ việc tiêu cực, vi phạm pháp luật trong các cơ quan công quyền lại không dễ phát hiện, mà nếu có bị phát hiện thì cũng thường không được xử lý nghiêm minh, đúng người đúng tội, và cái kết cục phổ biến vẫn thường thấy chỉ là những cụm từ mà dân chúng nghe đã nhàm tai như “rút kinh nghiệm sâu sắc”, “phê bình nghiêm khắc”, và cuối cùng thường là “hòa cả làng”!
Điển hình là các vụ việc nổi cộm gây cho dư luận nhiều bức xúc, báo chí đã tốn nhiều giấy mực, như nạn “mãi lộ” của cảnh sát giao thông, tình trạng xử lí các hành vi vi phạm trong xây dựng, ô nhiễm môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm… nhưng cuối cùng cũng chỉ xử lí “ầu ơ” khiến cho tệ nạn này vẫn ngang nhiên tồn tại như là sự thách thức dư luận và pháp luật. Chính vì các sai phạm thường được bao che, không bị xử lý nghiêm khắc cho nên các hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật, coi thường pháp luật, nhờn luật diễn ra rất phổ biến ở ngay chính các cơ quan công quyền. Đó là hệ quả trực tiếp của việc lạm quyền của một bộ phận quan chức khiến cho những mối quan hệ bất minh được hình thành dựa trên sự liên kết bởi quyền lực và tiền bạc, đất đai, dự án,… mà báo chí đã vạch ra vô số, khiến nạn tham nhũng trở thành “quốc nạn”.
Trong bối cảnh mà những hành vi vi phạm pháp luật, coi thường pháp luật, thách thức pháp luật đang diễn ra rất phổ biến và phức tạp hiện nay, có lẽ vấn đề đáng quan tâm hơn cả đó là thực trạng vi phạm pháp luật của chính những người làm luật đang diễn ra khá phổ biến. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể thấy các thông tin về các hành vi vi phạm pháp luật diễn ra với ngay chính những người đang cầm cân nảy mực, đang nhân danh công lý để bảo vệ và thực thi pháp luật đã không còn là hiện tượng hiếm hoi, cá biệt, thậm chí còn xuất hiện với một tần số ngày càng cao hơn, tính chất của vụ việc cũng ngày càng trầm trọng hơn. Điển hình là các vụ việc gây bất bình trong dư luận gần đây như: chánh án “xử không cần án”, chánh án, thẩm phán chạy án, kiểm sát viên, thư kí tòa nhận hối lộ, chạy án, …
Bài báo Khi các quan tòa phạm tội của tác giả Nguyên Tấn (Thesaigontimes.vn) với việc dẫn ra những vụ việc tiêu biểu mà báo chí đã đưa tin sẽ giúp chúng ta nhận diện được phần nào về thực trạng rất đáng lo ngại này: “Quan tòa, ở xã hội nào cũng vậy, luôn được coi là biểu tượng của nền công lý. Thế nhưng, một thực tế là ở nước ta danh sách các quan tòa bị vướng vào lao lý đang càng ngày càng dài thêm.
Gần đây nhất, chỉ trong vòng tháng 6 và 7-2009, các phương tiện truyền thông đưa tin ít nhất có bốn thẩm phán bị phát hiện, xử lý vì có dấu hiệu phạm tội.
Ở trường hợp đầu tiên, mặc dù vụ án được giao chưa đưa ra xét xử nhưng thẩm phán Đinh Xuân Tùng, TAND huyện Cai Lậy, Tiền Giang đã tự ra một quyết định trái pháp luật là công nhận thuận tình ly hôn cho nguyên đơn, và nhờ “bửu bối” đó, người này đã “bỏ vợ” đi đăng ký kết hôn với người khác (theo cand.com.vn, 14/7/2009).
Hai vụ tiếp theo là thẩm phán Lê Minh Hiếu, Phó chánh án TAND huyện Tam Nông, Đồng Tháp và thẩm phán Bùi Đức Hải, Phó chánh án TAND huyện Sơn Hòa, Phú Yên đều có hành vi nhũng nhiễu, vòi tiền của bị đơn, bị cáo trong khi xét xử (theo thanhnien.com.vn, 4/6/2009; Lao động, 4/8/2009).
Trường hợp thứ tư thì quan tòa lại đi chạy án cho bị can! Đó là vụ thẩm phán Nguyễn Xuân Sơn, Phó chánh án TAND huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh cất công đến tận nhà riêng một quan chức thuộc cơ quan điều tra của tỉnh Phú Yên để đưa phong bì hối lộ 30 triệu đồng nhằm “xin giúp đỡ xem xét, giảm nhẹ tội” cho một đối tượng đang bị cơ quan này điều tra.
Không biết điều gì đã làm cho kẻ hối lộ liều lĩnh đến mức trong quá trình hối lộ ngoài việc đưa phong bao còn xuất trình luôn cả thẻ chứng nhận thẩm phán mang tên mình. Tấm thẻ do TAND Tối cao vừa cấp ngày 28-12-2008, có giá trị đến cuối 2012 (Pháp luật TP.HCM, 11/7/2009).
Những chuyện tiêu cực đại loại như thế xảy ra, nhất là đối với các quan tòa giữ vai trò cầm cân nảy mực của xã hội, phải được coi như một hiện tượng “động trời”, trái với chuẩn mực tối thiểu về đạo đức nghề nghiệp nhưng giờ đây trở thành những mẩu tin bình thường được xếp lẫn vào các thông tin tiêu cực khác trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đơn giản, bởi chúng cứ xảy ra liên tục và mức độ “tày đình” càng lúc càng tăng. Chỉ tranh chấp một cái nhà vệ sinh rộng 2,7 mét vuông thôi cũng bị vòi vĩnh một cách trắng trợn! Vũ Văn Lương, nguyên thẩm phán TAND quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, người được phân công xét xử vụ án nói trên, đã dùng những lời lẽ chẳng khác gì “xã hội đen” để đe dọa, vòi 150 triệu đồng của bị đơn. Được biết, vị thẩm phán này đã có thâm niên hàng chục năm ngồi xét xử và thời điểm bị kết án 15 năm tù do nhận hối lộ cũng là thời điểm ông ta sắp nghỉ hưu (Giadinh.net.vn, 20/6/2008).
Vì tiền, một quan tòa khác, Đinh Thị Hòa, nguyên thẩm phán TAND tỉnh Thái Nguyên đã sẵn sàng nhận hối lộ để sửa bản án, giảm nhẹ tội cho các đối tượng trong đường dây mua bán, vận chuyển hàng chục bánh heroin (Người Lao động, 29/9/2007).
Còn và còn rất nhiều những vụ bê bối tương tự được phát hiện liên quan đến các quan tòa. Theo hội nghị triển khai công tác năm 2008 của ngành tòa án, riêng trong năm 2007 đã có 35 cán bộ, thẩm phán bị kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu tính trên tổng số khoảng 3.350 thẩm phán tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh cả nước hiện nay thì số tiêu cực trong một năm này đã chiếm tới 1%, một con số nhức nhối! Nhiều ý kiến cho rằng đó chỉ mới là những vụ việc lẻ tẻ bị phát hiện”.
Từ thực trạng đáng báo động đỏ này, tác giả bài báo bình luận:
“Công lý đưa lại niềm tin cho dân chúng, làm tiền đề cho sự tồn tại và phát triển xã hội nhưng công lý sẽ khó có thể được tạo dựng một khi đạo đức của một số người cầm cân nảy mực đang trên đà suy đồi...”.
Nhìn ra phương Tây, tác giả cho biết, ở đó, “hiện tượng tham nhũng trong giới quan tòa xảy ra rất hãn hữu. Tại Mỹ, theo tài liệu của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, từ năm 1789 đến nay chỉ có 7 thẩm phán bị kết án phạm tội.
Ông Trần Hữu Huỳnh, Trưởng ban pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam kể, mới đây ông có tháp tùng đoàn thẩm phán của Việt Nam sang Anh. Khi đến thăm tòa án, một thẩm phán của ta hỏi: “Ở Anh, nếu thẩm phán nhận hối lộ thì xử lý ra sao?”. Vị thẩm phán nước bạn trố mắt như bị xúc phạm: “Nhận hối lộ ư? Tôi đã làm việc ở đây 40 năm nhưng chưa bao giờ nghe hoặc chứng kiến có chuyện ấy xảy ra”.
Phản ánh thực trạng chạy án như một vấn nạn nhức nhối hiện nay, trên báo Thanh niên, tác giả Thanh Thảo trong bài: "Chạy án và...” đã viết:
…Đúng là không ai cho không ai cái gì, nhưng sự nghiệt ngã ở ta đã khiến "công nghệ chạy" ăn sâu vào tiềm thức rất nhiều người, dĩ nhiên chiếm số đông nhất là quan chức - những người có việc phải "chạy" và có khả năng để "chạy"… Phải nói, từ lâu nay, đã có không ít những vụ "chạy án" thành công, chí ít cũng thành công một nửa. Nếu không, "công nghệ" này chẳng thể phát triển như vậy. "Đích đến" của những cuộc chạy này dĩ nhiên là các cơ quan bảo vệ pháp luật, các "công bộc" bảo vệ pháp luật. Nguyễn Mậu Thôn - cái tên nghe rất dân dã - chỉ là “một trong số” những "chuyên gia" chạy án. Thuyết "chăn voi" cũng vậy. Ma trận nào cũng có đường vào, và mê cung nào cũng có lối thoát, nhưng giải được bài toán đó là cực khó. Trong khi, các cơ quan bảo vệ luật pháp của ta, về danh chính ngôn thuận là rất rõ ràng, rất minh bạch, nhưng trong thực tế lại luôn có những chỗ khá "nhòe mờ", hàm chứa một kiểu "lô-gích mờ" rất nước đôi mà lắm khi người ta phải hiểu "dzậy mà không phải dzậy" hay "không phải dzậy mà dzậy". ...Chuyện "chạy án" ở ta hóa ra cũng không quá khó (Thanh Thảo, Thanh niên, 13/04/2006).
TS Nguyễn Đức Mậu trong bài viết trên Báo lao động đã phản ánh thực trạng chạy án như một hiện tượng phổ biến trong xã hội hiện nay khi đặt ra và trả lời câu hỏi: Chạy án - chạy ai?
“Đang có một cuộc điều tra quy mô về vụ án "chạy án" liên quan đến những vụ tiêu cực ở PMU18 thuộc Bộ GTVT. Đây không phải là lần đầu tiên các công dân của ta được nghe nói đến "tệ nạn chạy án". Nói cho cùng thì "chạy án" là một hiện tượng không phổ biến trong lịch sử, nó dường như chỉ xảy ra trong một hoàn cảnh xã hội "đặc biệt". Từ điển tiếng Việt bị bổ sung các từ vốn gây nên sự nhức nhối xã hội: Chạy án, chạy chức. Lịch sử tiếng Việt chưa từng xuất hiện các từ như thế và lịch sử quốc luật, hình luật nước ta cũng chưa từng xuất hiện các tội danh như thế. Nếu có cái nội dung đó thì cũng chưa đạt đến mức... "chạy". Quy luật cung cầu về phương diện này dường như vừa thể hiện nhanh nhất vừa biểu hiện đầy đủ nhất, hay nói đúng hơn là sản phẩm đầy tội lỗi của cái cơ chế "xin", "cho", của thứ quyền lực đứng trên luật pháp hay đẻ ra "luật pháp" từ các quyền lợi của cá nhân tha hoá nhưng có quyền lực và có nhiều tiền.Từ "ai chạy?" đến "chạy ai?". Trả lời câu hỏi này một cách minh bạch thì thực sự là một thách đố nhưng đó mới thực sự biểu hiện một quyết tâm - và không chỉ của quyết tâm, mà là biểu hiện của một tinh thần pháp luật. Chưa trả lời được câu hỏi này nghĩa là vẫn tồn tại vùng cấm, vùng bí hiểm, từ đây, tất nhiên trong lại đặt ra nhiều câu hỏi và vấn đề lòng tin bị thử thách. Nhưng câu hỏi vẫn là câu hỏi mang tính vụ, việc. Vấn đề vẫn được tiếp tục là có phải đã và đang tồn tại sự can thiệp vào pháp luật? Và pháp luật cũng có thể bị can thiệp từ một vài cá nhân? Nếu không có chuyện can thiệp như thế thì không thể xảy ra chuyện "chạy án". Tính độc lập của luật pháp sẽ luôn bị đe doạ (Báo Lao động, 01/4/2006). Các thông tin trên đây về các vụ việc vi phạm pháp luật của các cán bộ công chức đang đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, thực thi công lí cho dù chỉ là hiện tượng “con sâu làm rầu nồi canh” nhưng đã khiến cho dự luận thực sự lo ngại về tình trạng lạm quyền, mà thực chất đó là hành vi chà đạp lên pháp luật, vô hiệu hóa pháp luật của chính những người đang đại diện cho các cơ quan pháp luật. Có thể nói, người làm luật được chính thức trao quyền áp đặt khuôn mẫu xử sự lên toàn xã hội, bởi vậy họ chính là tấm gương mẫu mực để các chủ thể quan hệ xã hội noi theo. Nếu văn hóa ứng xử của người thực thi pháp luật không chuẩn mực thì pháp luật sẽ có nguy cơ bị lạm dụng, và thay vì để tổ chức hành vi của chủ thể trong đời sống pháp lý, nó sẽ trở thành công cụ để chống lại pháp luật. Ngay ở các nước có nền văn hoá pháp luật lâu đời, có tinh thần thượng tôn pháp luật cao, người ta vẫn ý thức rằng, muốn pháp luật được tôn trọng một cách phổ biến, nghĩa là bằng ý thức công dân tự giác, thì trước hết nhà chức trách công phải nêu gương. Huống chi ở nước ta hiện nay, tinh thần thượng tôn pháp luật đang chỉ là mục tiêu phấn đấu. Trong điều kiện chính người nắm giữ quyền thực thi pháp luật lại là người tìm cách vô hiệu hoá luật thì việc người dân thường không tuân thủ pháp luật thực ra chỉ là sự bắt chước tự nhiên, phù hợp với logic của mối quan hệ giữa người quản lý và người được quản lý. Bởi vậy, những câu chuyện đáng buồn trên đây khiến chúng ta không thể không đặt câu hỏi, rằng, người dân làm sao có thể tin vào sự công minh và tính chuẩn mực của pháp luật, khi nó đang bị điều khiển bởi những người hành xử bất chấp pháp luật như vậy? Từ thực trạng này, tác giả Huy Đức (trong bài báo Công lý và các quan toà) khẳng định: “Quan toà là những con người đòi hỏi phải có cả năng lực và phẩm giá. Làm sao thuyết phục là công lý đã được phán quyết, khi những người đưa ra những phán quyết ấy không đáng tin cậy cả về năng lực lẫn đạo đức cá nhân…Lòng tin vào công lý phải bắt đầu được kiến tạo kể từ trong quy trình bổ nhiệm một quan tòa” (Huy Đức, Công lý và các quan toà, Sài Gòn Tiếp thị Online, 14/01/2009). Và cũng cần nói thêm rằng, nhân cách, phẩm chất và cách hành xử của những người thực thi pháp luật chính là tiêu chí đầu tiên để đo lường chất lượng của một nền văn hóa pháp luật. Bài tường thuật sau đây của nhà báo Trường Uy về cuộc trả lời chất vấn của ông Chánh án Tòa án tối cao Nguyễn Văn Hiện tại kì họp thứ X, Quốc hội khóa XI, đã cho chúng ta thấy rõ hơn những chuyện “bếp núc” phía sau của ngành tòa án. Từ những thông tin được cung cấp bởi người đứng đầu ngành tòa án khiến chúng ta không khỏi giật mình về cung cách bổ nhiệm cũng như thực trạng chất lượng nguồn lực con người của ngành tòa án ở nước ta hiện nay. Đồng thời qua đây cũng giúp chúng ta lí giải về tình trạng tha hóa nhân cách và phẩm chất của một bộ phận các vị quan tòa đang diễn ra ở mức đáng báo động như hiện nay.
“Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao Nguyễn Văn Hiện trả lời trước Quốc hội”:
Phần giải trình của chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Văn Hiện đã làm “bùng nổ” diễn đàn Quốc hội (QH) sáng qua 27-11. Các đại biểu QH đặt vấn đề: chất lượng thẩm phán như vậy thì làm sao tránh khỏi án oan sai?
“Không “vơ vét” thì “chiếu cố”!
Đăng đàn giải trình trước QH, chánh án Nguyễn Văn Hiện đưa ra những con số rất ảm đạm cho thấy ngành công an, kiểm sát còn thiếu điều tra viên, kiểm sát viên trầm trọng. Riêng ngành tòa án, ông cho biết năm 2005 toàn ngành thiếu đến 1.116 thẩm phán, do đó trong 4 -5 năm năm qua ngành đã “tạm gọi là vơ vét, tận dụng những lực lượng đã có để bổ nhiệm cho đủ …", tận dụng lực lượng đã có và bổ nhiệm thêm các thẩm phán chưa đạt yêu cầu.
Tuy nhiên, dù đã “vơ vét”, song do số lượng vụ án thụ lý tăng nên đến nay vẫn còn thiếu 900 thẩm phán! Rất nhiều đại biểu (ĐB) QH đã tỏ thái độ bức xúc. ĐB Lê Văn Cuông (Thanh Hóa) chỉ trích việc “vơ vét” những người không đủ tiêu chuẩn vào đội ngũ thẩm phán như vậy sẽ dẫn đến xét xử bỏ lọt tội phạm và oan sai.
ĐB Nguyễn Đình Lộc (TP.HCM) cho rằng việc “vơ vét” là điều kiêng kị vì thẩm phán phải được chọn lọc, tuyển chọn rất kỹ, vì vậy ông khẳng định thà thiếu chứ không thể “vơ vét” thẩm phán. Còn ĐB Nguyễn Ngọc Trân (An Giang) yêu cầu ông chánh án không nên dùng từ “vơ vét”, ông nhấn mạnh: “Ông chánh án phải cẩn trọng khi dùng từ như vậy”…
Bối rối trước sự phản ứng của các ĐB, chánh án Nguyễn Văn Hiện đã phải hai lần xin “đính chính” không phải là “vơ vét”, mà đúng ra là “chiếu cố một số trường hợp trình độ chuyên môn còn yếu một chút ở một số nơi để bổ nhiệm thẩm phán rồi động viên, mong anh em hoàn thành nhiệm vụ”.
Song sự “chiếu cố” đó lại tiếp tục làm các ĐBQH không hài lòng, đặt vấn đề về hậu quả của sự “chiếu cố”: tình hình hủy án, sửa án và oan sai diễn ra ở nhiều nơi. ĐB Nguyễn Văn Nhượng (Quảng Bình) hỏi trong số hơn 9.000 vụ hủy án, sửa án trong năm 2005, có bao nhiêu vụ do nguyên nhân chủ quan của thẩm phán?
ĐB Nguyễn Thị Hồng Xinh (Bà Rịa – Vũng Tàu) đoan chắc số vụ án hủy, sửa không dừng lại ở con số 9.000, vì có rất nhiều người do không đủ tiền hầu tòa nên đã bỏ cuộc. Bà Xinh nhấn mạnh từ trước đến nay chưa thấy tòa án tự kỷ luật thẩm phán nào, chỉ khi nào báo chí phát hiện rồi mới xử lý...
Ông chánh án ở đâu?
Theo ĐB Nguyễn Thị Hồng Xinh, có nhiều thẩm phán “cố tình đạp lên pháp luật mà đi”, và lấy dẫn chứng vụ nhà 83 Đội Cấn (Hà Nội) đã được các ĐBQH đặt vấn đề qua năm kỳ họp QH rồi mà vẫn chưa giải quyết được. Bà Xinh hỏi: do năng lực thẩm phán kém hay do “chạy án”?
ĐB Nguyễn Thị Việt Nhân (Kiên Giang) phàn nàn, dù chánh án Nguyễn Văn Hiện đã gần kết thúc nhiệm kỳ năm năm rồi mà vẫn chưa một lần đến Kiên Giang làm việc với các tòa địa phương, khiến dư luận tại tòa án địa phương hay nói rằng “ổng ngồi ở trên hoài”. Ông Hiện thừa nhận chưa đến Kiên Giang, chỉ có cấp phó của ông đi, tới đây ông mới đi!
ĐB Nguyễn Lân Dũng (Đắc Nông) hỏi có nhiều người dân qua hết các cấp xét xử rồi mà vẫn còn cảm thấy bị oan, có gặp được ông chánh án không? Chánh án Hiện nói rằng sẵn sàng, song hiện nay 1/3 thời gian làm việc của ông là dành cho QH, Trung ương, thời gian rất bận,“không thể ai cũng gặp được!” (Trường Uy, Tuổi trẻ, 28/11/2006). Có thể nói, tòa án là một trong ba trụ cột của hệ thống chính trị. Để xã hội ổn định và phát triển bền vững thì ngành tòa án đóng vai trò rất quan trọng, trong đó yếu tố quyết định đầu tiên là ở việc lựa chọn người "cầm cân nảy mực". Bởi vậy, chính việc lựa chọn người “cầm cân nảy mực” theo kiểu “vơ vét” và “châm chước” như vậy đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng xét xử của tòa án và cũng là nguyên nhân của những vụ tiêu cực trong xét xử đang ngày càng trở nên phổ biến hiện nay.
1.2.2.2. Thực trạng về chất lượng xét xử của tòa án
Một môi trường văn hóa pháp luật cao không chỉ biểu hiện ở năng lực và phẩm chất của những người thực thi pháp luật, mà cùng với đó, chất lượng xét xử của tòa án – một phương diện biểu hiện của văn hóa pháp đình cũng là một tiêu chí quan trọng. Vậy thực trạng chất lượng xét xử của tòa án hiện nay như thế nào?
Ông Trần Thế Vượng Trưởng ban Dân nguyện của Quốc hội trong cuộc trả lời phỏng vấn PV báo Tiền phong bên lề Quốc hội chiều 24/10/2008 đã cho biết, tình hình dân khiếu nại, đề nghị xem xét theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án đã có hiệu lực diễn ra từ nhiều năm nay. Riêng năm 2008 TANDTC đã thụ lý hơn 11.000 đơn khiếu nại, đã xem xét hơn 5.000 đơn, còn hơn 6.000 đơn chưa được xem xét. Những con số này cho thấy chất lượng xét xử hiện đang là vấn đề rất đáng quan tâm, bởi không chỉ số lượng vụ án tồn đọng rất nhiều, mà tỷ lệ các vụ án oan sai, theo ông Trần Thế Vượng, cũng rất cao, trên 10% (Nguyễn Tuấn thực hiện, Tienphong online, 25/10/2008). Còn vào thời điểm cuối năm 2009, theo số liệu được Thanh tra Chính phủ công bố tại buổi tổng kết ngành năm 2009, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đã minh oan cho hơn 2.000 người.
Trước đó, theo báo cáo của Bộ Tư pháp tại phiên họp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 19 tháng 4 năm 2007, có 311.443 án dân sự tồn đọng, không thi hành được, chiếm 48% số vụ việc. Như vậy là gần một nửa án dân sự không được thi hành, có nghĩa là bản án dù được tuyên nhưng việc thực thi không có hiệu lực, do đó vẫn không xác lập được sự công bằng thực sự trong xã hội. Trên thực tế, đã có nhiều cá nhân, tổ chức được tòa án xác định phần thắng trong tranh chấp dân sự, nhưng mất nhiều năm họ vẫn không đòi được quyền lợi hợp pháp của mình do sự bất lực của cơ quan thi hành án.
Trong bài báo “Phận dân và luật nước” nhà báo Sáu Nghệ cũng đưa ra những con số báo động về tình trạng gia tăng các vụ việc khiếu nại, tố cáo. Bài báo viết:
“Xấp xỉ bốn năm trước, ngày 1-11-2006, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XI, Tổng Thanh tra Chính phủ đã cảnh báo: "Tình hình khiếu nại, tố cáo trên địa bàn cả nước diễn biến không bình thường". Câu nói này đến nay vẫn nóng bỏng tính thời sự. Năm 2007, tăng đột biến với con số: 240.584 lượt người khiếu nại. Những năm tiếp theo, số lượt người khiếu nại tiếp tục tăng lên. Mới đây, ngày 27-9-2010, báo cáo của Chính phủ tại cuộc họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, số lượt công dân đến các cơ quan nhà nước khiếu nại tố cáo năm 2010 tăng 23,7% so với năm 2009. Rõ ràng vấn đề hiện nay không phải công dân mà là quan chức, phải tìm hiểu và nghiêm túc thi hành những giá trị cao cả của luật pháp: bảo vệ tự do, dân chủ, nhân quyền. Giá trị của luật pháp không nằm trên giấy hay ở lời nói mà đúng bằng giá trị của sự thực hiện luật ấy trong cuộc sống. Với giá trị hiện thực ấy, luật pháp tạo nên niềm tin của dân chúng và được dân chúng thừa nhận. Niềm tin của dân chúng làm nên sức mạnh của bộ máy chính quyền” (Tiền Phong, 30/10/2010).
Tỷ lệ và số lượng các vụ án tồn đọng, oan sai và sự gia tăng số lượng các vụ việc khiếu nại, tố cáo trong thời gian gần đây đã đủ để dư luận phải gióng lên hồi chuông báo động về chất lượng xét xử của hệ thống tư pháp cùng với trình độ năng lực, đạo đức nghề nghiệp của những người đang nắm giữ cán cân công lí.
Điều đó cũng có nghĩa là hoạt động của hệ thống tòa án chưa mang lại hiệu quả và công bằng cho xã hội. Đằng sau con số hàng trăm ngàn vụ án tồn đọng, oan sai hàng năm là bao nhiêu số phận con người phải chịu thiệt thòi, oan khuất, và hơn thế nữa, các vụ án oan không chỉ liên quan đến nạn nhân, đến một số người của vụ án mà thôi. Phần nhiều sự oan sai có hệ lụy không nhỏ trong đời sống xã hội vì nó liên quan tới niềm tin của cộng đồng về công lý. Trong số các vụ án oan sai, có thể không ít vụ việc người dân phải đeo đuổi với thời gian tính bằng năm, thậm chí hàng chục năm mới có kết quả như nhiều câu chuyện khó tin mà có thật được phản ánh trong các bài báo như: Chính quyền tắc trách, dân khiếu kiện suốt 11 năm (Tùng Quang, Sài Gòn Tiếp thị); 16 năm đi kiện cơ quan điều tra (vnexpress.net/GL/Phap-luat/2008/08/3). Có lẽ rất nhiều tâm trạng hiện nay cùng thấm thía câu thành ngữ mà cha ông đã truyền lại từ thời xưa:“được vạ má đã sưng”! Không chỉ tốn kém tiền của để đeo đuổi các vụ khiếu kiện mà nhiều trường hợp còn bị tổn hại tinh thần, đánh mất danh dự, niềm tin... Chỉ những người đã từng trải qua những cảnh ngộ ấy mới hiểu được những gì sẽ xảy ra tiếp theo sau một lời tuyên án của quan tòa. Hiển nhiên là ai cũng hiểu rằng, mọi người khi làm bất cứ việc gì, cũng như mọi nhân viên công quyền đều có thể phạm sai lầm. Nhưng sai lầm của tòa án sẽ để lại hậu quả đặc biệt nghiêm trọng vì liên quan tới số phận con người. Dư luận từng biết câu chuyện cả một đại gia đình lâm khổ nạn nhiều năm trong vụ án Vườn điều; rồi vụ xử tử tù Huỳnh Văn Nam ở Đồng Nai có dấu hiệu oan sai nhưng đã chết vì bệnh, không đợi được ngày có kháng nghị; và mới đây, dư luận hẳn chưa quên vụ 3 thanh niên Nguyễn Đình Tình, Nguyễn Đình Lợi và Nguyễn Đình Kiên thuộc xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ (nay là PhườngYên Nghĩa, Quận Hà Đông, Hà Nội) được Tòa án tối cao tuyên bố vô tội và trả tự do sau gần 10 năm ngồi tù oan khuất vì bị kết tội hiếp dâm và cướp tài sản. Có thể nói đây là một vụ án oan sai điển hình mà nguyên nhân là do những sai phạm ở thái độ làm việc vô trách nhiệm trong tất cả các khâu của quá trình tố tụng, từ cơ quan điều tra cho đến viện kiểm sát và tòa án. Trả lời phỏng vấn của PV VnExpress, ông Lê Hữu Thể Viện phó VKSND Tối cao nói:
“Vụ án này xảy ra cách đây 10 năm, đã được truy tố, xét xử qua 2 cấp và bản án có hiệu lực pháp luật, các bị án đã thi hành án được gần 10 năm.Vừa qua VKSND Tối cao đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm (…) Kháng nghị của VKS Tối cao đã nêu ra 9 sai sót trong quá trình tố tụng. Các sai sót nêu ra đều rất quan trọng, là cơ sở để VKS Tối cao kháng nghị. Điều cần nhấn mạnh là quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc và quy định cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự”. Về những sai sót trong quá trình điều tra, ông cho rằng: “Đây không phải là vụ án quá khó, vì người bị hại đã nhận diện được đặc điểm của những kẻ gây án. Hung khí gây án cũng được xác định. Người bị hại đã giữ lại được vật chứng mà thủ phạm bỏ lại hiện trường, trình báo và giao nộp ngay cho cơ quan điều tra. Dấu vết của tội phạm (dấu vết sinh học) đang còn để lại trên người nạn nhân bị hiếp dâm. Có nhiều nhân chứng xác định sự ngoại phạm của các bị cáo (...). Nếu quá trình điều tra tuân thủ đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về khám nghiệm hiện trường, thu giữ và nhận dạng vật chứng, nhận dạng người, lấy lời khai các nhân chứng thì sẽ không có những sai phạm như kháng nghị đã nêu (…).
Về những sai sót trong khâu xét xử, ông cũng khẳng định:“Khi xét xử, tòa án đã không xem xét, đánh giá đầy đủ, kỹ lưỡng, toàn diện, khách quan các tài liệu có trong hồ sơ vụ án dẫn tới việc ra một bản án không phù hợp với diễn biến khách quan của vụ án. Những sai sót, vi phạm trên là do việc nghiên cứu hồ sơ vụ án chưa kỹ của những người được phân công trực tiếp xử lý vụ án này”.
Khi được hỏi đánh giá của ông về vai trò của đại diện VKS tại 2 phiên tòa xét xử vụ án này, ông cho rằng:
“Trách nhiệm của kiểm sát viên không chỉ tại phiên tòa mà ngay trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án. Suốt quá trình điều tra, kiểm sát viên đã không phát hiện những vi phạm, thiếu sót của cơ quan điều tra trong việc thu giữ, nhận dạng vật chứng, khám nghiệm hiện trường để yêu cầu khắc phục.
Tại cả hai phiên tòa xét xử, những vi phạm, thiếu sót của hội đồng xét xử cũng có trách nhiệm của kiểm sát viên, vì đã không thực hiện hết trách nhiệm mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định…”. (Vnexpress.net/GL/Phap-luat/2010/06/3)
Sau 10 năm ngồi tù, cuối cùng ba thanh niên cũng đã được minh oan, nhưng rồi cuộc sống và tương lai của họ sẽ ra sao khi những năm tháng tuổi trẻ đã bị chôn vùi một cách oan nghiệt sau song sắt nhà tù?
Trên đây là một vụ án oan sai điển hình trong nhiều vụ án oan sai khác mà nguyên nhân là do thái độ làm việc vô trách nhiệm cùng với sự yếu kém về năng lực chuyên môn của các cơ quan điều tra, xét xử – hệ quả trực tiếp của việc bổ nhiệm cán bộ kiểu “vơ vét” và “châm chước” cho đủ số lượng như ông Chánh án Tòa tối cao đã từng phát biểu trước Quốc hội.
Tuy nhiên, còn một dạng án oan sai khác lại có nguyên nhân từ sự tha hóa của một bộ phận trong đội ngũ những người thực thi pháp luật, là hệ quả tất yếu của tệ nạn hối lộ, chạy án như thực trạng đã được chỉ ra ở phần trên, khiến cho cán cân công lý bị xô lệch, bẻ cong. Dư luận bất bình và thậm chí phẫn nộ trong một thời gian dài về những phán quyết bất công của tòa án nhân dân TP Cần Thơ trong vụ án bà Ba Sương, hay của cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Đaklăk khi cơ quan này tuyên bố không khởi tố bị can trong vụ một người phụ nữ đi mót cà phê bị chủ trại thả chó cắn chết. Công luận nhìn thấy đằng sau những phán quyết gây sốc ấy còn chứa nhiều uẩn khúc khiến không thể không đặt câu hỏi: phải chăng cán cân công lý đã bị xô lệch bởi sự chi phối của quyền lực và đồng tiền?
Đây là phần trích đăng bài viết của một bạn đọc trên VnExpress:
Vụ chó cắn chết người chứa đựng nhiều uẩn khúc: “Đọc bản kết luận của Công an TP. Buôn Mê Thuột tôi cảm thấy nó khá “suông”, “suông” ở chỗ Công an TP. Buôn Mê Thuột đã chưa thể hiện hết trách nhiệm của một cơ quan điều tra, tôi có cảm giác họ chỉ ghi nhận lại sự việc và đưa ra phán quyết “không khởi tố” theo một cảm nhận chủ quan nào đó.
Trong vụ án này, chứng cứ để xem xét trách nhiệm của các cá nhân liên quan là lời khai của các nhân chứng. Tôi thấy làm lạ khi có khá nhiều lời nhân chứng khai trùng khớp với nhau về sự việc (…). Thế nhưng các lời khai này vẫn chưa được xem xét một cách thấu đáo, thậm chí bị bỏ qua (…).
Trong một vụ án hình sự đã gây ra làn sóng phẫn nộ trong dư luận như sự việc này mà có nhiều tình tiết phức tạp thì điều đầu tiên CSĐT Công an TP Buôn Mê Thuột cần phải làm là khởi tố vụ án. Việc khởi tố vụ án nhằm tạo tiền đề cho việc điều tra xem xét vụ án một cách toàn diện. Vậy sao lại ra quyết định không khởi tố vụ án khi nhiều chứng cứ chưa được làm rõ? Nếu chưa được làm rõ mà đã kết luận là không khởi tố vụ án thì liệu có khách quan không?
Đây chính là những điều tôi cho rằng quyết định không khởi tố vụ án của CSĐT Công an TP. Buôn Mê Thuột vội vàng và chứa đựng nhiều uẩn khúc”. (Theo VnExpress,03/03/2010).
Còn ở Lâm Đồng, những bản án “kỳ lạ” của bà thẩm phán Phan Thị Lệ Thuỷ cũng là đề tài của nhiều bài báo gây bức xúc trong dư luận. Báo CATPHCM ra ngày 6-9-2008 có bài phản ánh về vụ án đòi thừa kế của một Việt kiều quốc tịch Úc, bà thẩm phán Phan Thị Lệ Thuỷ (Toà dân sự TAND tỉnh Lâm Đồng) đã tuyên một bản án bất chấp pháp luật bất chấp đạo lý, đổi trắng thay đen, gây thiệt hại cho quyền lợi chính đáng của bị đơn. Sau khi báo phát hành, Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TPHCM đã tuyên huỷ án, trả hồ sơ cho TAND tỉnh Lâm Đồng xét xử lại. Sau đó, báo CATP tiếp tục nhận được đơn thư của nhiều người tố cáo thẩm phán này đã xử nhiều vụ án gây oan sai, đẩy nhiều gia đình vào tình cảnh chịu uất ức, thiệt thòi, gây dư luận xấu trong xã hội mà đằng sau những vụ án oan sai ấy người ta nhận thấy “ có mùi áp phe”. Tiếp đó, trong hai tháng 9, 10-2008 báo Công an TP. Hồ Chí Minh có loạt bài phản ánh về những sai phạm trong rất nhiều vụ án của thẩm phán Phan Thị Lệ Thủy. Loạt bài đã gây chú ý dư luận, được nhiều người ủng hộ. Sau đó, các cơ quan chức năng đã vào cuộc, từng bước làm sáng tỏ “bí ẩn” trong những bản án oan sai...
Còn đây là một vụ xử án được coi là “chưa từng xảy ra trong lịch sử tố tụng”, bởi nó là điển hình cho sự “Thách thức dư luận và pháp luật”: “Ông Chánh án TAND tỉnh Đồng Nai đã ký quyết định hoãn thi hành án cho hai bị án Nguyễn Hoàng Huynh và Thái Văn Nghĩa với thời hạn 12 tháng. Sau đó, đề nghị TAND Tối cao xét đặc xá cho hai bị án này. Vụ việc này có lẽ chưa từng xảy ra trong lịch sử tố tụng.
Ông Nguyễn Hoàng Huynh - nguyên Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai - bị TAND Tối cao tại TPHCM tuyên phạt 3 năm tù giam vì hai tội “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng” và “thiếu trách nhiệm, gây hậu quả nghiêm trọng”. Ông Thái Văn Nghĩa - cấp dưới của ông Huynh - bị tuyên phạt 5 năm 6 tháng tù về ba tội, ngoài hai tội như ông Huynh, thêm tội “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.
…Căn cứ các quy định hoãn và miễn chấp hành án, cả hai phạm nhân Huynh và Nghĩa chưa phải là đối tượng được xem xét.
Nhưng từ quy định nhân đạo của pháp luật, người ta đã vận dụng để thực hiện mục đích riêng. Sự bất thường ở trong trường hợp này là hai ông Huynh và Nghĩa vẫn còn đi lại bình thường, nhưng được cơ quan giám định pháp y và tòa án phối hợp hỗ trợ để có được “quyền ưu tiên”... Ở đây chưa đặt ra vấn đề tiêu cực, nhưng đã cho thấy có dấu hiệu về sự cấu kết của các mối quan hệ quyền lực để thực hiện việc hoãn và miễn hình phạt cho tội phạm.
Còn có rất nhiều phạm nhân bị bệnh nặng thực sự, chịu đau khổ triền miên trong lao tù, đang chờ đợi hoãn hình phạt để điều trị bệnh tật nhưng chưa được. Trong lúc đó, hai bị án Huynh và Nghĩa nhởn nhơ ở ngoài, lại được xét đề nghị đặc xá. Việc làm này là thách thức dư luận, thách thức pháp luật. Vụ án liên quan đến hai vị này xảy ra là tham nhũng đất đai - rất nóng ở địa phương, lòng dân không phục. Nay lại thêm vụ hoãn thi hành án và đề nghị đặc xá thiếu khách quan này thì dân càng không phục, không tin (Lê Thanh Phong, Tuổi trẻ, 31/8/2010).
Ngoài ra, còn rất nhiều bài báo phản ánh, bày tỏ sự bức xúc về những người thực thi luật pháp vừa thiếu tầm vừa thiếu tâm lẫn đức, mà hệ quả là nhiều vụ án đã bị xử oan sai dưới nhiều dạng khác nhau. Có thể kể ra những bài báo với những vụ việc tiêu biểu như: Chính quyền tắc trách, dân khiếu kiện suốt 11 năm; 16 năm đi kiện cơ quan điều tra; Cán cân công lý đã lệch?; Thách thức dư luận và pháp luật; Còn bao nhiêu những vụ án oan sai đau lòng; Nghĩ về số phận những người bị bắt oan…; Xử oan và sửa sai… Như vậy qua những con số được công bố về số lượng các vụ án tồn đọng, oan sai và những bằng chứng là những vụ việc thực tế được dẫn ra trên đây có thể thấy, thực trạng chất lượng xét xử của tòa án hiện nay đang làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin của người dân vào cơ quan bảo vệ và thực thi công lý và cũng là minh chứng xác thực cho lời nhận xét của ông Trịnh Hồng Dương (nguyên Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao): “Luật Việt Nam xử thế nào cũng được. Xử thắng cũng được, xử thua cũng được, xử hòa cũng được…”.
Mổ xẻ nguyên nhân của thực trạng này có thể thấy, án oan sai xảy ra vì nhiều lẽ. Tại hội thảo “Vấn đề cải cách tư pháp và phòng chống oan sai trong tố tụng hình sự” do Liên đoàn luật sư Việt Nam tổ chức ngày 28.10.2009 tại Hà Nội, các nguyên nhân oan, sai xảy ra trong tố tụng hình sự được chỉ ra cả từ hai phía, khách quan và chủ quan. Các lý do được chỉ ra là: do cơ quan tố tụng không làm đúng trách nhiệm; do còn có những hiện tượng tiêu cực; do luật còn nhiều "kẽ hở”; do trình độ chuyên môn của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán còn non yếu...
Tác giả Lê Thanh Phong trong bài “Sự “vô nghĩa" của pháp luật!” thì cho rằng: “Do công tác điều tra, sưu tầm chứng cứ buộc tội tắc trách hay tệ hơn, ép cung hoặc dùng nhục hình. Do luật sư biện hộ kém cỏi hoặc không được tạo điều kiện bào chữa hiệu quả. Do trình độ và công tâm của các vị thẩm phán, những người cầm cân nẩy mực yếu kém. Còn do cả phía người bị xử và thân nhân, nhất là nông dân, không am hiểu pháp luật và cạn nghĩ v.v... Nhưng điều đáng lo ngại nhất vẫn là sự vô cảm của một số người thực thi pháp luật. Bởi nếu quan tâm đến số phận người khác, có một cái tâm trong trẻo thì dù trình độ yếu, nhân viên công quyền nào cũng có thể đưa lại sự công bằng và lẽ phải”. (Báo Lao động, 23/04/2008).
Từ thực tế đã được khảo sát, chúng tôi nhận thấy các vụ án oan, sai có thể phân ra hai dạng:
a) Loại xử oan sai không cố ý: đây là những vụ án oan, sai mà nguyên nhân là do, hoặc là của đội ngũ những người điều tra, xét xử non kém về năng lực và trình độ chuyên môn; hoặc là do thái độ làm việc vô trách nhiệm, vô tâm, vô cảm; hoặc là do cả hai.
b) Loại xử oan sai cố ý: đây là những vụ án oan, sai mà người điều tra, xét xử do bị chi phối bởi đồng tiền hoặc quyền lực nên đã cố tình bẻ cong, làm lệch cán cân công lý.
Tuy nhiên, dù là cố ý hay không cố ý thì những vụ án oan sai cũng cho thấy một thực trạng đáng báo động về chất lượng văn hóa pháp đình ở Việt Nam hiện nay, khi nó chưa thể trở thành công cụ đáng tin cậy để người dân tìm đến khi cần sự cầu viện vào công lý. Mà chỉ khi có niềm tin thì người dân mới chủ động sử dụng công cụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Điều này đã góp phần lý giải về thực trạng gia tăng tính chất phổ biến và nghiêm trọng của các hành vi bạo lực và hành xử kiểu “luật rừng” trong thời gian gần đây.
Trong tình hình sự gia tăng các vụ án oan sai, tồn đọng đang làm suy giảm niềm tin của xã hội vào chất lượng xét xử của tòa án, thì sau xét xử, việc thi hành án xem ra lại cũng không mấy khả quan, trong khi đây lại là một khâu quan trọng thể hiện rõ tính hiệu lực của cả hệ thống thiết chế thực thi pháp luật. Bởi vậy, việc xử án dù có được thực hiện công bằng, nghiêm minh thì cũng trở nên vô nghĩa khi việc thi hành án không có hiệu lực. Và kết quả là, pháp luật bị vô hiệu hóa khi “tuyên án để …chơi”!
Các bài báo được dẫn ra sau đây đã phản ánh một sự thật làm nản lòng những ai đang nuôi khát vọng về một xã hội thượng tôn pháp luật, khi chính các cơ quan thi hành án phải thừa nhận sự bất lực trước những lực cản từ nhiều phía trong việc thực thi các phán quyết của tòa:
Sự "vô nghĩa" của pháp luật!:
“Theo báo cáo của Bộ Tư pháp tại phiên họp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 19.4, năm 2007 có 311.443 án dân sự tồn đọng, không thi hành được, chiếm 48% số vụ việc.
Như vậy là gần một nửa án dân sự không được thi hành, có nghĩa bản án dù được tuyên và có hiệu lực pháp luật nhưng nó vẫn không xác lập được sự công bằng thực sự trong xã hội. Trên thực tế đã có nhiều cá nhân, tổ chức được tòa án xác định phần thắng trong tranh chấp dân sự, nhưng mất nhiều năm họ vẫn không đòi được quyền lợi hợp pháp của mình do sự bất lực của cơ quan thi hành án.
Quá trình tố tụng kéo dài qua nhiều cấp, toà án có thể hoãn hay xét xử lại nhiều lần để đi đến một kết luận mang tính pháp lý. Nguyên đơn bị thiệt hại, tán gia bại sản do bị lừa gạt phải tốn kém công sức và tiền bạc nhiều năm trời theo đuổi vụ kiện với hy vọng công lý sẽ mang lại sự công bằng nhưng sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu như thiệt hại không được đền bù.
Ví dụ toà tuyên bên A thắng kiện, bên B phải hoàn trả cho bên A một khoản tiền và tài sản gồm nhà cửa, đất đai... Nhưng bên A chỉ có bản án thắng kiện trong tay, còn tiền bạc, tài sản bị mất trắng thì bản án vô nghĩa, tòa án vô nghĩa và luật pháp cũng coi như vô nghĩa.
Nhà nước trả lương cho đội ngũ cán bộ của các cơ quan tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người dân và thiết lập công bằng xã hội. Nhưng quá trình hoạt động đó sẽ trở nên vô cùng lãng phí, bởi lẽ mục đích cuối cùng là trả lại quyền lợi và sự công bằng cho đối tượng bị thiệt hại đã không được thực hiện.
Thi hành án là khâu quyết định trong việc trả lại sự công bằng, là công đoạn giải quyết dứt điểm các tranh chấp. Nhưng lâu nay công tác này không làm tốt, chứng tỏ công tác điều hành, cơ chế hoạt động của thi hành án có vấn đề…(Lê Thanh Phong, Báo Lao động, 23/04/2008).
Trong bài báo Thi hành án: nan giải trước thách thức của...đương sự đăng trên báo Pháp luật Việt Nam ngày 15/4/2010, tác giả Huy Anh đã phản ánh thực trạng về những khó khăn khách quan và chủ quan trong việc thi hành án:
“Dù quy trình thi hành án đã được quy định khá cụ thể và chặt chẽ trong Luật Thi hành án dân sự (THADS), nhưng nhiều khi chấp hành viên (CHV) đành chịu “bó tay” khi “đương đầu” với những “thách thức” của thực tiễn và đương sự...
Khó từ tống đạt giấy tờ
Vẫn tưởng tống đạt giấy tờ là việc “dễ như chơi” vì đã được qui định rõ ràng từ điều 38 đến điều 43 Luật THADS và điều 7 Nghị định 58/2009/NĐ-CP. Nhưng theo ông Nguyễn Song Hà (Chi cục trưởng Chi cục THADS quận Thanh Xuân – Hà Nội), công tác tống đạt giấy tờ trong thi hành án “vướng rất nhiều vì thế nào là tống đạt hợp lý vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau”. Không những thế, thực tế phức tạp của công tác thi hành án đã khiến nhiều chấp hành viên rơi vào tình trạng “dở khóc dở cười” khi không thể xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc xác định được địa chỉ thì không tìm được người phải thi hành án. Thậm chí, nhiều trường hợp chấp hành viên đã trực tiếp tống đạt giấy tờ nhưng đương sự phủ nhận để khiếu nại, khiếu kiện chấp hành viên nhằm... không cho thi hành án (…).
Không kể việc tống đạt giấy tờ, thông báo về việc kê biên tài sản cũng như “đánh động” để người phải thi hành án mang tài sản đi... “tặng, cho” người thân, nên ông Nguyễn Văn Lạng (Chi cục THADS quận Ba Đình – Hà Nội) cho rằng: “nếu làm trái luật không thông báo trước còn thi hành án được, chứ sau khi thông báo, chẳng thể nào làm được gì!”.
Tuyên án để... chơi!
Thực tế đó được ông Nguyễn Văn Lạng phản ánh qua thực tế một số công ty TNHH – đối tượng phải thi hành án – “chỉ cần thay đổi tên” là có thể “trêu ngươi” cơ quan thi hành án.
Đó là hậu quả của những qui định pháp luật không “tương hỗ” với nhau, không chỉ khiến những phán quyết của Tòa án “thiếu đầu ra”, mà còn “vô hiệu hóa” cơ quan THA vì không xác định được đối tượng phải THA (…). Rất nhiều trường hợp cơ quan THA chuẩn bị cưỡng chế mới nhận được yêu cầu hoãn hoặc kháng nghị của TANDTC, VKSNDTC hay do người phải THA khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết yêu cầu dừng THA. Việc cưỡng chế đương nhiên phải dừng, tốn kém về kinh phí không nhỏ, nhưng không bằng việc hình thành nên “thái độ coi thường pháp luật” từ phía người phải THA (…). (Huy Anh, báo Pháp luật VN, 15/04/2010).
Trong một hệ thống thiết chế thực thi pháp luật, tất cả các khâu đều liên đới, phụ thuộc và chi phối nhau. Bởi vậy, sự bất lực của công tác thi hành án vừa phản ánh ý thức coi thường pháp luật của người dân nhưng cũng đồng thời là sự phản ánh thực trạng về sự yếu kém của năng lực thể mang tính hệ thống khiến nó không đủ sức mạnh để thực thi pháp luật một cách có hiệu quả. Mỗi năm có hàng ngàn bản án không thi hành được cũng có nghĩa là chừng ấy người dân mang nỗi oan ức, và hơn thế nhiều lần là những người liên quan bị mất niềm tin vào công lý.
1.2.2.3. Thực trạng về chất lượng văn bản pháp luật
Việc khảo sát, nhận diện một nền văn hóa pháp luật không thể chỉ dừng lại ở việc nhận diện các hành vi pháp luật và đánh giá chất lượng của hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật. Bởi như ta biết, trong sự vận hành của một hệ thống pháp luật quốc gia thì hệ thống văn bản pháp luật và hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật là hai mắt xích không thể tách rời. Trong đó hệ thống văn bản pháp luật vừa là sản phẩm, lại vừa là cơ sở để các thiết chế thực thi pháp luật có thể hoạt động; đến lượt mình, các thiết chế thực thi pháp luật lại là công cụ để hiện thực hóa các văn bản pháp luật. Theo đó, tính hiệu quả của hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật vừa là thước đo chất lượng của văn bản pháp luật, lại vừa thể hiện khả năng, trình độ vận dụng kiến thức và công cụ pháp luật của nhà nước trong việc quản lý xã hội. Bởi vậy, việc đánh giá chất lượng của hệ thống văn bản pháp luật hiện hành sẽ góp phần giúp chúng ta nhận diện đầy đủ và toàn diện hơn về thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay.
Việc đánh giá chất lượng của hệ thống văn bản pháp luật được chúng tôi thực hiện ở cả hai phương diện: việc soạn thảo, ban hành văn bản pháp luật và việc thực thi văn bản pháp luật trong thực tế.
Trước hết, đối với việc soạn thảo, ban hành pháp luật, các thông tin được công bố trên báo chí gần đây cho thấy thực trạng về sự tồn tại “một rừng văn bản luật pháp” với nhiều những sai phạm, mâu thuẫn, chồng chéo, không khả thi… Trên báo Tuổi trẻ ngày27 Tháng 5 năm 2006, tác giả Cẩm Văn Kình có bài tường thuật về cuộc trao đổi giữa báo Tuổi trẻ cuối tuần với ông Lê Hồng Sơn, cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản qui phạm pháp luật (bộ Tư pháp), để tìm hiểu thực trạng và phân tích nguyên nhân một số chính sách sai cũng như tìm giải pháp để các cơ quan nhà nước đừng... vi phạm pháp luật nhiều quá.
Xin dẫn ra đây nội dung bài báo: “Văn bản pháp luật năm 2005: Sai 30%”
Tại sao sai?
- PV: Năm 2005, cục đã phát hiện bao nhiêu văn bản sai, thưa ông?
- Tính đến tháng 11-2005, Cục Kiểm tra văn bản qui phạm pháp luật đã tiếp nhận 3.902 văn bản qui phạm pháp luật và các loại văn bản khác (cấp bộ 1.013, cấp tỉnh 2.889). Cục đã triển khai xem xét 2.140 văn bản theo thẩm quyền và đến hết 2005 đã kiểm tra xong 1.702 văn bản. Qua số đó, đã phát hiện tới 522 văn bản có dấu hiệu vi phạm (khoảng 30%). Đáng lưu ý là trong số 522 văn bản trên có 114 văn bản ban hành sai thẩm quyền, 169 văn bản có nội dung không phù hợp với văn bản pháp luật cấp trên. Ngoài ra còn có 109 văn bản sai căn cứ pháp lý, 170 văn bản sai kỹ thuật trình bày.
- PV: Theo ông, nguyên nhân chính khiến các văn bản qui phạm pháp luật sai nhưng cứ ra đời là do đâu? Liệu vẫn bó hẹp ở cách giải thích “năng lực có hạn” hay còn lý do nào khác?
- Có hai nguyên nhân. Thứ nhất là không nắm chắc các qui định của trung ương nên làm trái mà không biết. Nhưng có một dạng khác, biết trung ương qui định thế nhưng thấy tình hình địa phương phức tạp thì tự cho mình một cái quyền, đó là phán xét các văn bản của trung ương bất cập, không đáp ứng yêu cầu rồi tự đặt ra qui định khác. Cái thứ hai này rất nguy hiểm vì họ biết sai, biết không cho làm nhưng vẫn làm. Nó giống như một người đi đường thấy đèn đỏ nhưng cứ nghĩ đèn sai để vượt.
- PV: Vi phạm thứ hai đã phổ biến cùng tình trạng trên bảo dưới không nghe? Xét trên khía cạnh nào đấy, đó là hành vi chống lệnh?
- Trong những cái sai, cái sai thứ nhất cá biệt và cái thứ hai nhiều hơn. Nói chống lệnh thì hơi nặng nhưng cũng có thể hiểu như thế. Ví như các văn bản qui định phạt hành chính của mấy chục địa phương. Việc qui định hành vi, thẩm quyền phạt và mức phạt là phải từ cấp Chính phủ trở lên. Quốc hội không cho, Chính phủ không cho nhưng hơn một nửa số tỉnh thành trên cả nước đã tự đặt ra mức qui định rồi thực hiện với hình phạt tiền và tạm giữ nặng hơn qui định chung.
- PV: Ở khía cạnh thứ hai thì không thể nói do trình độ thấp được, mà nó gắn với yếu tố lợi ích nhóm?
- Đó có thể là lợi ích cục bộ của các địa phương, các bộ, ngành. Nhìn rõ nhất là các qui định ưu đãi đầu tư của các tỉnh. Nó đụng đến nguồn thu ngân sách nên tỉnh nào cũng muốn biến địa phương mình thành vùng trũng để vốn chảy đến, bất kể xung quanh là thế nào.
- PV: Không ít trường hợp cơ quan nhà nước còn cố tình lách luật như biện pháp tạm ngưng không cho đăng ký xe máy ở Hà Nội và TP.HCM thời gian trước?
- Nếu nói là cấm thì thành vấn đề nhưng TP Hà Nội không nói cấm mà chỉ nói tạm ngưng nên chúng tôi cũng chỉ có thể xem tạm ngưng vì lý do gì, đến bao giờ thì thôi. Và bây giờ thì đã phải mở trở lại để đảm bảo quyền sở hữu của người dân theo hiến pháp.
Công chức “đùa dai”: hậu quả rất lớn
- PV: Ông đánh giá thế nào về hậu quả của các văn bản sai và cố tình sai đối với đời sống xã hội, sự phát triển của đất nước?
- Hậu quả bao giờ cũng lớn. Như trường hợp các địa phương đặt ra mức xử phạt vi phạm hành chính cao, nó đẩy người tham gia giao thông đến chỗ phải đối phó. Quyền và lợi ích hợp pháp của họ cũng bị ảnh hưởng. Trước hết, nó sẽ dẫn đến việc người dân coi thường kỷ cương và các biện pháp điều chỉnh của Nhà nước. Kể cả các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương cũng coi thường kỷ cương ở trung ương. Những trường hợp này nếu không xử lý nghiêm thì nó dễ sinh ra tình trạng 64 tỉnh thành và các bộ, ngành hiểu pháp luật theo kiểu khác nhau.
- PV: Giá đang biến động, điện vẫn được đề xuất tăng, rồi trước đây là cấm xe biển số lẻ vào Hà Nội ngày chẵn... Theo ông, qui trình ban hành luật có vấn đề gì không khi nhiều công chức thi thoảng cứ “đùa dai” với những ý tưởng “đáng sợ”?
- Thật ra qui trình được đặt ra trong Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật rất chặt. Nó có nhiều công đoạn: phải lấy ý kiến của tầng lớp chịu sự tác động của luật, lấy ý kiến nhân dân, các đoàn thể, có cả qui định phải soạn thảo đa ngành, có cơ chế thẩm định, thẩm tra... Nhưng bây giờ đáng tiếc là nhận thức của các công chức tham mưu chưa đạt, quá trình làm lại không thực hiện đầy đủ các qui trình nên đưa ra các đề xuất cực đoan như cấm karaoke; biển số chẵn, biển số lẻ...
- PV: Như vậy rõ ràng ở các văn bản trên, người ta đã bỏ qua việc tham khảo ý kiến người dân? Trình độ tham mưu đã kém lại còn “yếu tố lợi ích” đã khiến các văn bản trở nên đáng sợ?
- Việc tham khảo ý kiến nhân dân ở các văn bản đó, nếu có thì cũng không làm đến nơi đến chốn, hoặc hình thức. Người đề xuất đôi khi biết rõ sai nhưng vẫn làm vì lợi ích cục bộ. Có thể là lợi ích của bộ, ngành, địa phương mình.
- PV: So với các văn bản địa phương, văn bản pháp luật của các bộ, ngành nếu sai sẽ ảnh hưởng tiêu cực hơn vì chúng thường liên quan đến đời sống của cả quốc gia như giá điện, giá dầu rồi các loại thuốc, văcxin...
- Không phải các bộ đều đúng. Sai là có, ở nhiều vấn đề. Cái sai hay gặp ở các bộ là thay vì hướng dẫn thi hành để đưa luật vào cuộc sống thì lại hay gợi ý. Ví dụ khi đưa ra danh mục các sản phẩm như thuốc, bộ chỉ nên đưa ra các tiêu chí và qui định chất lượng nhưng Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn lại đưa ra danh mục các doanh nghiệp này doanh nghiệp kia. Hoặc có bộ ra văn bản các doanh nghiệp của bộ chỉ được tiêu thụ các sản phẩm do bộ mình sản xuất...
- PV: Cục Quản lý văn bản pháp luật có quản được các công văn để chỉ ra được các lợi ích đằng sau chúng? Ví dụ cái gì đứng sau quyết định đánh thuế ôtô cũ tới 600%?
- Đúng là những chỉ đạo và lợi ích đằng sau thì khó nắm được. Nhưng nếu là những văn bản, qui định có tính qui phạm sai thì sẽ phải điều chỉnh. Song rất khó nếu là những chỉ đạo miệng đằng sau công văn hay những công văn có ý tứ gợi ý khéo lẫn vào các ý chính.
Sai do kỷ luật không nghiêm?
- PV: Nguyên nhân sâu xa của tình trạng văn bản pháp luật cứ nghiêng về lợi ích cục bộ, sẵn sàng sai là do các cơ quan sai phạm chưa hề phải chịu trách nhiệm gì?
- Về nguyên tắc là phải chịu trách nhiệm, chỉ có điều hiện nay làm chưa đến nơi đến chốn. Vì đó là một phần của thi hành công vụ. Làm không tốt thì phải chịu trách nhiệm. Đúng ra, nếu gây hậu quả cho xã hội thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
- PV: Từ trước đến nay đã ai phải chịu trách nhiệm vì ra văn bản sai pháp luật chưa, thưa ông?
- Chưa. Vì liên quan đến việc xem xét hậu quả thế nào. Ngay cả trường hợp tham mưu ra các qui định sai gây tác động xấu đến xã hội, theo pháp lệnh công chức thì phải kỷ luật. Nhưng ở ta từ trước đến nay, một văn bản qui phạm pháp luật thường là sản phẩm của tập thể, từ một anh nhân viên, đến các phòng rồi mới tới lãnh đạo. Có thể cả cấp ủy vào cuộc nữa. Nên việc qui trách nhiệm khó làm đến nơi đến chốn. Về nguyên tắc là phải xử lý trách nhiệm của người tham mưu đầu tiên, rồi người đặt bút ký cuối cùng.
- PV: Ông nghĩ thế nào khi thực tế, nhiều văn bản sai được nhắc nhở nhưng một số bộ, ngành địa phương vẫn cứ thực hiện?
- Cái này là kỷ cương chưa nghiêm. Có việc mà dân nói sai, phản biện xã hội nói sai, Cục Quản lý văn bản qui phạm pháp luật nói sai, cấp trên nói sai nhưng người ta vẫn không sửa. Như việc qui định xử lý vi phạm hành chính, một số địa phương hiện nay vẫn chưa hủy. Ngay qui định phải gửi văn bản lên cục, nhiều cơ quan cũng không làm.
Giải pháp: dân đừng chịu đựng
- PV: Trước một văn bản pháp luật sai, người dân làm sao dám cãi? Cần làm gì để các cơ quan phải cân nhắc nhiều hơn trước khi ra quyết định? Nên có cơ chế lắng nghe ý kiến dân chứ không thể một chiều mãi?
- Nói người dân chỉ có thể tự vuốt bụng chấp nhận thật ra không đúng mà họ có quyền khiếu nại, yêu cầu. Như một loạt tỉnh có qui định xử phạt hành chính cao hơn qui định của trung ương, nếu ai bị phạt, hoàn toàn có thể kiện lên tòa hành chính. Chỉ có điều dân mình có thói quen chịu đựng, mỗi ngày hàng nghìn trường hợp chứ không ít, nhưng không có ai kiện. Đấy là điều thiếu tích cực của người dân. Nếu người dân làm đúng quyền của mình thì các cơ quan sẽ phải cẩn thận hơn, hoặc phải sửa đổi bổ sung các văn bản sai nhanh hơn.
- PV: Ngoài sự chủ động của dân, cần phải có cơ chế buộc lãnh đạo các cơ quan ra văn bản sai phải xuống địa bàn xin lỗi dân giống ngành tòa án vì các văn bản sai cũng gây khổ cho dân không ít?
- Theo tôi, tất cả cơ quan nhà nước khi thực hành công vụ nếu gây lỗi gì thì đều phải xin lỗi dân chứ không chỉ ngành tòa án. Ngay một số vụ tiêu cực nổi cộm gần đây, đầu tiên phải xin lỗi dân trước hết sau đó mới là truy, nhận trách nhiệm. Cơ chế phòng chống, điều hành, quản lý kém gây hậu quả thì phải xin lỗi dân.
- PV: Với tình hình hiện nay, có thể nói sẽ ngày càng có nhiều văn bản sai vì ngày càng có nhiều qui định pháp luật?
- Trước đây, lãnh đạo có thể chỉ gọi nhân viên lên hỏi vài câu rồi ký một văn bản qui phạm pháp luật. Nhưng nay nhiều dự thảo pháp luật vừa đưa ra đã bị phản ứng, cuối cùng họ phải rút. Nên nếu tiếng nói người dân nhiều và mạnh lên, cơ chế hậu kiểm tốt thì số người dám làm sai sẽ ít đi. (Cẩm Văn Kình, Tuổi trẻ, 27/ 5/ 2006).
Còn đây là một bài báo khác: Hàng ngàn văn bản có dấu hiệu vi phạm pháp luật:
“Tại hội nghị triển khai công tác tư pháp năm 2011 tổ chức ở Đà Nẵng ngày 22-12, báo cáo của Bộ Tư pháp cho biết năm 2010 toàn ngành đã tiến hành kiểm tra và phát hiện có đến 6.888 văn bản có dấu hiệu vi phạm pháp luật (cao nhất trong vòng bốn năm qua).
Địa phương có số lượng văn bản có dấu hiệu vi phạm cao nhất là Hưng Yên (3.267 văn bản), tiếp đến là Sơn La (376 văn bản). Báo cáo đánh giá công tác xây dựng pháp luật còn tách rời khỏi thực thi pháp luật, vẫn mang nặng tư duy pháp lý thuần túy; thiếu nhạy bén trong việc phát hiện, kiến nghị những vấn đề bức xúc trong xã hội; kết quả kiểm tra và yêu cầu xử lý vi phạm chưa được các cơ quan ban hành văn bản chú trọng giải quyết.
Thứ trưởng thường trực Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên nhấn mạnh: “Nâng cao chất lượng thẩm định, chất lượng và tiến độ xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của ngành trong năm 2011”. (V. Hùng, Tuổi trẻ, 23/12/2010).
Bài báo “Nhà nước pháp quyền và loạn công văn” của tác giả Tư Giang (Báo Sài Gòn tiếp thị, 25/01/2010) cũng phản ánh thực trạng:
“… cả một “rừng luật” đang ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống của người dân và doanh nghiệp. Không khó để chứng minh điều này. Theo báo cáo Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2009 (PCI) vừa công bố, trong điều hành các địa phương bắt đầu có xu hướng sử dụng công văn hơn tuân thủ các văn bản pháp luật. Trong giai đoạn 2005 – 2008 có 9.470 công văn có bao hàm các nội dung quy phạm pháp luật được ban hành, nhiều gấp ba lần số công văn được ban hành trong 18 năm trước đó (giai đoạn 1987 – 2004). Trước năm 2004, trung bình một tỉnh có 19 công văn trên 81 văn bản quy phạm pháp luật, nay tỷ lệ này đã tăng tới 55/45. Hai chuyên gia Phan Vinh Quang và John Bently, đồng tác giả của bản báo cáo hàng năm này cho rằng, việc ban hành các công văn đã tạo ra một “rừng văn bản pháp luật”, mà “ngay cả chuyên gia cũng bị lạc chứ chưa kể đến người dân và các nhà đầu tư”.
Vẫn theo báo cáo này, chỉ số tính minh bạch đang có chiều hướng đi xuống. Một tỷ lệ lớn doanh nghiệp (61,26%) cho rằng phải có “mối quan hệ” mới tiếp cận được các tài liệu liên quan đến hoạt động kinh doanh mà tỉnh ban hành. Có tới 52% doanh nghiệp tại các địa phương tin rằng, cán bộ tỉnh sử dụng các quy định riêng của tỉnh với mục đích trục lợi, tăng cao so với các năm 2008 và 2007.
Báo cáo này cho rằng, trường hợp thường thấy ở Việt Nam là các doanh nghiệp thường bị phạt do vi phạm các quy định của Nhà nước mà họ chưa từng được biết đến. Khi nhận ra được điều này, họ sẽ phải chịu một khoản tiền phạt đáng kể và mất thời gian để điều chỉnh hoặc giải quyết vấn đề bằng những cách không chính đáng như trả các khoản “bôi trơn”.
Vì sao vẫn xảy ra tình trạng này khi Quốc hội đã thông qua luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, và Chính phủ cũng đã có nghị định 136 quy định các địa phương phải công bố tất cả các văn bản quy phạm pháp luật cấp tỉnh trong công báo tỉnh? Cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm chấn chỉnh lại tình trạng này?
Điều cần nói là điều hành bằng công văn thay vì các văn bản pháp luật sẽ dẫn tới hạ thấp hoàn toàn các văn bản pháp luật. Luật pháp tối thượng sẽ bị vô hiệu hoá khi công văn lại có hiệu lực hơn văn bản luật. Đây là một thách thức lớn cho nhà nước pháp quyền mà Việt Nam tuyên bố theo đuổi. (Tư Giang, Báo Sài Gòn Tiếp thị, 25/01/2010).
Cùng với việc “loạn công văn”, với “những kiểu sai làm khổ dân” như văn bản chồng chéo, không nhất quán, mâu thuẫn không rõ nghĩa, nhiều tầng nấc và thay đổi liên tục…, một kiểu sai khác nữa cũng đang lầm khổ dân không kém, và không những thế, còn “gây lúng túng” trong việc thực thi ở cả hai phía: người dân và cả chính cơ quan chịu trách nhiệm thi hành, đó là tình trạng luật được ban hành một cách tùy tiện, chủ quan, cảm tính nên không phù hợp với thực tiễn cuộc sống, mà bài báo sau đây là một trong rất nhiều bằng chứng:
Ứng xử nửa vời và “nỗi lo ba gác”
“Gần đến thời điểm kết thúc việc gia hạn lệnh cấm lưu hành xe ba gác, hàng chục ngàn người sinh sống bằng phương tiện ấy ở TP.HCM vẫn thấp thỏm chờ giải pháp của nhà chức trách đối với bài toán chuyển đổi nghề nghiệp.
Theo tình hình này thì, về mặt lý thuyết, sắp có hàng chục ngàn người sẽ bị coi là phạm pháp, nếu cứ tiếp tục dùng phương tiện bị cấm lưu hành để kiếm sống.
Về phần mình, nhà chức trách cứ loay hoay tìm cách tháo gỡ mớ bòng bong của cơ chế lẩn quẩn do chính mình đặt ra. Chẳng hạn, muốn được hỗ trợ thì phải có mã số hộ nghèo, muốn có mã số hộ nghèo thì phải có hộ khẩu; muốn có hộ khẩu thì phải có chỗ ở, việc làm ổn định; muốn có việc làm, chỗ ở ổn định thì phải được hỗ trợ;… Do không dứt khoát nói “đúng”, cũng không khẳng định là “trái”, thái độ ứng xử của nhà chức trách, xuất phát từ một quan điểm nhìn nhận không rõ ràng, trở nên rất lúng túng và thiếu nhất quán: có người được hỗ trợ, người khác thì tự “bơi”; người này được hỗ trợ cách này, người khác được hỗ trợ cách khác; quận không dám quyết, chờ thành phố, còn thành phố thì yêu cầu quận phải khẩn trương;… Bây giờ thì không ai dám đoán trước liệu lần hoãn lệnh cấm này sẽ là lần chót hay… lại cũng chỉ là lần kế chót. Cho đến bây giờ, các chính sách vĩ mô được hoạch định và các chuẩn mực pháp lý được xây dựng, trong hầu hết trường hợp, căn cứ chủ yếu vào nhu cầu quản lý của người cầm quyền đối với xã hội. Đáng lý ra, căn cứ ấy phải là sự kết hợp hài hoà giữa nhu cầu đó với những đòi hỏi tích cực của cuộc sống (Nguyễn Ngọc Điện, Sài Gòn Tiếp thị Online, 22/12/2008). Và còn nhiều nữa những văn bản luật với những qui định, những đề xuất có thể coi là “kì quặc” như: cấm karaoke; qui định ngày cho xe biển số chẵn, biển số lẻ vào thành phố; qui định tiêu chuẩn sức khỏe, chiều cao, cân nặng cho người tham gia giao thông… khiến cho dư luận rất bức xúc, gọi đó là những câu chuyện “công chức đùa dai” với những ý tưởng “đáng sợ”, là “quyết định gây choáng”, là “đều luật gây dị ứng”…và vì vậy, trong thực tế, không ít văn bản luật làm ra chỉ để “đọc cho… vui”! Cũng vì luật được làm ra một cách chủ quan cảm tính, xa rời thực tế nên không ít các luật sau khi được ban hành không có tính khả thi, “gây lúng túng cả hai phía”, gây nên tình trạng “gậy ông đập lưng ông” là điều vẫn thường thấy. Tính chất tùy tiện, chủ quan, cảm tính không chỉ thể hiện ở việc soạn thảo, ban hành văn bản pháp luật mà còn thể hiện khá phổ biến trong công đoạn tiếp theo, đó là việc thực thi, vận dụng văn bản trong thực tế cuộc sống. Bài báo sau đây của tác giả Diệp Văn Sơn phản ánh về thực trạng này:
Phép tắc nhìn từ hai phía “Qua quyết định cắt tầng của nhiều nhà chỉ được phép xây 4 – 5 tầng đã ngang nhiên xây thêm đến 10 – 11 tầng, công luận coi đây là sự “thách thức luật pháp”, rất đồng tình. Tuy nhiên, để góp thêm cái nhìn nhiều chiều cũng xin có một vài ý kiến. Nhìn ở giác độ của người quản lý, chuyện xây nhà vượt số tầng cho phép là “thách thức luật pháp”, còn ở giác độ người bị quản lý? Chẳng việc gì phải biện minh cho hành vi sai trái quá rõ này. Nhưng từ trong sâu thẳm những hành vi này có việc hành xử lâu nay của những người quản lý ngầm biện minh! Đã từng có chuyện “phạt cho tồn tại” ngay đến những công trình gây an nguy cho cả thủ đô như xây nhà xâm lấn đê sông Hồng, con đê bảo vệ sinh hoạt an toàn ngàn đời nay cho Hà Nội, cũng chỉ bị phạt cho tồn tại, nói chi việc vi phạm cỏn con là vi phạm không gian kiến trúc. …Ngay vừa mới đây thôi, văn bản liên sở Xây dựng và Tài nguyên và môi trường 5144 ngày 30.6, hướng dẫn cấp giấy chứng nhận cho nhà xây sai phép, không phép sau ngày 1.7.2004. Chuyện này không biết nên buồn hay vui? Vui là trên vài ngàn ngôi nhà, công sức cả đời, mồ hôi nước mắt của dân, chỉ vì các văn bản chồng chéo gây lúng túng cho việc triển khai cấp phép theo nghị định 88 nhưng vì bức bách dân đành phải xây không phép, nay không bị tháo dỡ mà lại được công nhận. Nhưng buồn là hệ luỵ xấu về ý thức chấp hành pháp luật về lâu dài của cộng đồng. Còn nhiều chuyện tương tự loại như vậy, như chuyện cấm xe ba gác... Từ ngày ra nghị quyết 32 (29.6.2007) về cấm xe thô sơ, xe ba gác, có thể thấy sự lúng túng trong việc triển khai nghị quyết. Qua việc mãi đến đêm 31.12.2007, bộ trưởng bộ Giao thông vận tải có công điện về việc gia hạn đến tháng 6.2008. Cũng như cách hành xử không thống nhất của chính quyền các địa phương trên cả nước. Thí dụ, TP.HCM: lúc đầu gia hạn sáu tháng; Hà Nội: chỉ kiểm tra nhắc nhở; Cần Thơ: tịch thu bán phế liệu; Đà Nẵng: không dời thời hạn; Quảng Ngãi: cấm trên quốc lộ và đường đô thị; Bến Tre: vùng nông thôn vẫn cho phép… Sự lúng túng, chần chừ này phải chăng là do thấy tính bất hợp lý của văn bản, cộng với lòng “trắc ẩn” còn đâu đó của người thi hành công vụ? Sau nhiều lần gia hạn, TP.HCM quyết định hạn cuối cùng là ngày 1.1.2010. Sự lúng túng thật sự thể hiện ở chỗ cách đây gần hai năm hầu như vắng bóng những hướng dẫn cho người dân biết để chuẩn bị. Lẽ ra trong vai trò tham mưu cho Chính phủ ban hành quyết định 32, các cơ quan hữu quan phải có một nghiên cứu toàn diện về xe tự chế ba bốn bánh, ai sử dụng, tỷ lệ gây tai nạn và ùn tắc giao thông của chúng, có thể thay thế bằng phương tiện gì, bằng cách gì để người lao động có thể chuyển đổi phương tiện, vai trò của nó đối với đời sống xã hội hiện nay… Vì không nghiên cứu khảo sát, xa rời thực tế, nên những người tham mưu không nắm được xe tự chế là phương tiện sinh sống duy nhất của nhiều người, của nhiều gia đình. Chỉ tính riêng ở TP.HCM có đến 60 ngàn xe tự chế tương ứng là từng ấy gia đình 5 – 6 người chỉ trông nhờ vào chiếc xe tự chế thô sơ ấy và cả nước con số sẽ là bao nhiêu? Đứng ở góc độ kinh tế mà xem xét giao thông đối với nền kinh tế của đất nước như các mạch máu của một cơ thể con người, xe thô sơ ví như các li ti huyết quản. Những chiếc xe thô sơ ấy chuyên chở nông sản tôm cá ra chợ, đến đầu mối thu mua để xuất khẩu, đến nhà máy chế biến, chở vật liệu xây dựng đến từng con hẻm và chở cả rác thải ở khắp hang cùng ngõ hẻm mà không dễ gì có phương tiện khác thay thế.
Trong hơn 60 ngàn người điều hành xe tự chế, chỉ có khoảng 4% người có hộ khẩu thường trú ở TP.HCM. Như vậy còn hơn 95% người không thuộc diện được hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề! Họ vẫn phải sống, vẫn mưu sinh, lo miếng cơm manh áo thường nhật cho 5 – 6 miệng ăn. Vì thế họ vẫn phải chạy, chịu phạt, chịu chi lót tay người thi hành công vụ không ngay ngắn... Họ cứ chạy, cứ chạy cho đến khi nào bị giam xe... Thử hỏi không biết thành phố có bao nhiêu bãi xe đủ giam ngần ấy xe. Quả là một quyết định gây khó cả hai phía – người thi hành công vụ và người dân. Xe ba gác hiện nay vẫn chạy! Công luận từng đánh giá “một quyết định thiếu tính nhân văn”. Cũng như vậy, gần đây bộ Giao thông vận tải lại đề nghị gia hạn không xử phạt tài xế xe đầu kéo không có bằng FC. Người quản lý cứ giật lùi, giật lùi thì dĩ nhiên người bị quản lý tiến tới. Nguy hại nhất là lờn thuốc, tâm lý bất thượng tôn pháp luật sẽ hình thành bám rễ sâu trong cộng đồng, khi ấy hết thuốc chữa. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền sẽ còn gặp nhiều trở ngại, gập ghềnh, chông gai. Trách nhiệm này không của riêng ai mà thuộc về hai phía. (Diệp Văn Sơn, Sài Gòn Tiếp thị). Chính vì những bất ổn ngày từ công đoạn làm luật nên tất yếu đã dẫn đến những khó khăn, lúng túng và tùy tiện trong việc thực thi pháp luật. Những gì được phản ánh trong bài báo trên đây có thể coi là một điển hình của tình thế “gậy ông đập lưng ông”. Bởi vậy, để “đưa pháp luật gần hơn với cuộc đời” thì trước hết luật phải bắt nguồn từ cuộc sống, phải xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn, cũng có nghĩa là trước hết phải đưa cuộc sống vào luật.
Từ các thông tin được dẫn ra trên đây, có thể rút ra một số nhận xét chung về những yếu kém, bất cập trong việc soạn thảo và ban hành các văn bản pháp luật hiện nay, đó là:
1- Số lượng các văn bản pháp luật sai quá lớn (năm 2005 có 30% văn bản sai; năm 2010 có đến 6.888 văn bản có dấu hiệu vi phạm pháp luật) với các dạng sai phổ biến như: ban hành sai thẩm quyền; văn bản cấp dưới ban hành không phù hợp với văn bản cấp trên; văn bản sai căn cứ pháp lý; văn bản sai kỹ thuật trình bày.
2- Văn bản được ban hành quá nhiều, “cả một rừng văn bản pháp luật”, với “loạn công văn” khiến cho người dân và doanh nghiệp khó tiếp cận, không biết để thực hiện (61,26% doanh nghiệp cho rằng phải có “mối quan hệ” mới tiếp cận được các tài liệu liên quan đến hoạt động kinh doanh mà tỉnh ban hành).
3- Văn bản luật không rõ nghĩa, chồng chéo, không nhất quán, mâu thuẫn (giữa bộ luật này với bộ luật khác; giữa trung ương với địa phương; bộ, ngành này với bộ, ngành khác). Hệ quả là, khi chính những người có nhiệm vụ thực thi pháp luật còn lúng túng trong việc vận dụng thì người dân và doanh nghiệp không biết, không hiểu, không tuân thủ cũng là điều hiển nhiên.
4- Nhiều văn bản luật thiếu tính khả thi vì không không gắn với nhu cầu thực tiễn. Hơn nữa, pháp luật còn thể hiện rõ khuynh hướng “vị nhà nước” hơn là “vị dân”.
5- Quá trình một văn bản đi vào đời sống phải qua nhiều tầng nấc (Văn bản pháp luật, Nghị định, Thông tư…) khiến cho mỗi khi ban hành một điều luật mới lại phải chờ đợi những văn bản dưới luật cụ thể hóa, hướng dẫn thi hành nên rất rắc rối và thường là chậm trễ, không kịp thời. 6- Luật thay đổi liên tục, trong khi công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục không kịp thời và cũng chưa được quan tâm đúng mức nên người dân không nắm chắc được các quy định của pháp luật để thực thi (ví dụ: chỉ từ năm 2003, đến nay, Nghị định số 15 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, liên tục được sửa đổi, thay thế (Nghị định 92/2003, sau đó lại được thay thế bằng Nghị định 152/2005 và đến nay Nghị định 152/2005 cũng đang có yêu cầu sửa đổi).
Nguyên nhân trực tiếp của những yếu kém, bất cập trong việc soạn thảo và ban hành các văn bản pháp luật hiện nay, đó là:
1- Văn bản pháp luật sai do việc ban hành không đúng thẩm quyền, một cách không cố ý (do năng lực cán bộ hạn chế và thái độ làm việc thiếu trách nhiệm); hoặc sai do cố ý (vì lợi ích cục bộ của từng địa phương, từng ngành), mà đây thực chất là hành vi coi thường, bất chấp pháp luật của ngay chính nơi ban hành pháp luật.
2- Do nhiều cơ quan, ban ngành có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật nhưng lại thường thiếu sự phối hợp thống nhất, đồng bộ nên dẫn đến tình trạng số lượng các văn bản quá nhiều làm cho hệ thống pháp luật cồng kềnh và theo đó là tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, “đá nhau” giữa các văn bản pháp luật.
3- Văn bản luật không có tính khả thi do việc soạn thảo, ban hành được thực hiện một cách tùy tiện, chủ quan, cảm tính, thiếu tính thực tiễn, khiến cho không ít trường hợp chính chủ thể thực thi pháp luật cũng gặp nhiều khó khăn, lúng túng và lâm vào tình thế “gậy ông đập lưng ông”.
Sự tồn tại các văn bản luật vi phạm pháp luật, cùng với việc hoạch định, điều hành chính sách pháp luật và thực thi pháp luật một cách tùy tiện, chủ quan, cảm tính, thiếu đồng bộ và nhất quán đã gây nên nhiều tác động tiêu cực đối với đời sống xã hội, làm suy giảm niềm tin vào tính hiệu lực của pháp luật, và cùng với đó là sự gia tăng thói quen hành xử không thượng tôn pháp luật. Đó là nguyên nhân trực tiếp khiến cho nhiều điều luật chỉ tồn tại trên giấy; nguyên tắc “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” vì vậy cũng chỉ là lời kêu gọi, hô khẩu hiệu suông.
Trong nhà nước pháp quyền, sự tồn tại của hệ thống pháp luật, một chính sách pháp luật cũng như sự ra đời của một điều luật suy cho cùng là nhằm mục đích bảo vệ những quyền lợi chính đáng của công dân, bởi vậy, một khi nó xa rời mục đích tối thượng ấy thì sẽ chỉ nhận được sự phản ứng tiêu cực từ phía xã hội, đó là sự đối phó bằng cách né tránh hoặc tìm cách chống lại, vô hiệu hóa pháp luật. Đây là những nghịch lý rất lớn cho công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, nơi mà pháp luật có sức mạnh tối cao trong việc điều chỉnh các hành vi của con người. Vì vậy, để xây dựng thói quen, lối sống thượng tôn pháp luật thì trước hết, và trên hết, hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật phải hoàn thiện để có thể vận hành một cách có hiệu quả.
Tuy nhiên, bằng một cái nhìn khách quan và biện chứng cũng cần phải thấy rằng, những hạn chế, bất cập của một hệ thống pháp luật khi đang trong quá trình hoàn thiện để thích ứng với những thay đổi trong quản lý kinh tế, xã hội như ở nước ta hiện nay là điều khó tránh khỏi, bởi còn nhiều vấn đề mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn mà sự điều chỉnh để hoàn thiện đòi hỏi phải cả một quá trình. Hiện nay chúng ta đang ở giai đoạn quá độ để chuyển mình từ nền kinh tế nông nghiệp tiểu nông sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với đó cũng là giai đoạn quá độ về văn hóa để chuyển từ nền tảng văn hoá truyền thống (với hai cấu trúc hạt nhân là lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo) sang cấu trúc của một nền văn hóa mới. Nếu đặc trưng chung của mọi thời kì quá độ là cái cũ đang bị phá vỡ trong khi cái mới chưa hình hình thì sự khủng hoảng các giá trị dẫn đến sự bất chấp chuẩn mực trong hành vi ứng xử của xã hội là điều khó tránh khỏi. Thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay là một minh chứng cho điều đó. 1.3. Đánh giá chung về thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay
Từ việc khảo sát thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay trên hai phương diện biểu hiện chủ yếu là hành vi pháp luật và hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật, chúng tôi rút ra một số nhận xét tổng quát sau đây: 1.3.1. Thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay – bức tranh xám màu
Có thể nói, từ một cái nhìn toàn cảnh cũng như cận cảnh đã cho ta thấy một bức tranh xám màu về thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay, biểu hiện qua các phương diện:
1.3.1.1. Hành vi pháp luật
- Hành vi vi phạm pháp luật đang diễn ra với mức độ phổ biến và tính chất nghiêm trọng, biểu hiện phổ biến như: không tuân thủ pháp luật, né tránh pháp luật, coi thường, vô hiệu hóa pháp luật, hành xử kiểu “luật rừng”…
- Về lĩnh vực vi phạm: biểu hiện trên mọi lĩnh vực, nhưng thể hiện điển hình nhất là các hành vi vi phạm trong giao thông; quản lý xây dựng; bảo vệ môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm; các hành vi bạo lực và ứng xử “luật rừng”…
- Về đối tượng vi phạm: từ dân thường đến công chức, từ công dân đến cơ quan công quyền, nhưng đáng cảnh báo hơn cả là việc vi phạm pháp luật ngày càng phổ biến hơn ở ngay chính đối tượng đang đảm nhận các nhiệm vụ bảo vệ công lý và thực thi công lý, đó là cán bộ trong các cơ quan công quyền thực thi pháp luật, và các cơ quan bảo vệ pháp luật (quan tòa, công an).
- Về việc xử lý vi phạm: các sai phạm chưa được xử lý nghiêm khắc, kịp thời; các chế tài xử phạt còn quá nhẹ, không đủ sức răn đe, ngăn chặn. Thậm chí những sai phạm ở các cơ quan công quyền còn phổ biến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, “cha chung không ai khóc”, bao che tiêu cực…Hậu quả là gây nên trong xã hội tâm lý nhờn luật, coi thường pháp luật, thậm chí là thách thức pháp luật.
1.3.1.2 Các thiết chế thực thi pháp luật và hệ thống văn bản pháp luật
- Chất lượng nguồn nhân lực trong các cơ quan thực thi pháp luật còn nhiều bất ổn, do một bộ phận cán bộ công chức yếu về năng lực chuyên môn, tha hóa về phẩm chất đạo đức và thiếu tinh thần trách nhiệm, dẫn đến việc xử án còn nhiều oan sai, tồn đọng, gây mất niềm tin của xã hội vào sự công bằng và tính nghiêm minh của pháp luật.
- Chất lượng văn bản pháp luật còn thấp, văn bản pháp luật vi phạm pháp luật quá nhiều, văn bản chồng chéo, mâu thuẫn, không rõ nghĩa, hay thay đổi, không phù hợp với thực tiễn, không có tính khả thi… gây khó khăn cho cả hai phía: người dân với tư cách là đối tượng chấp hành và các cơ quan công quyền với tư cách là chủ thể thực thi pháp luật. 1.3.2. Các nguyên nhân trực tiếp Theo khảo sát chúng tôi qua những thông tin mà báo chí phản ánh, không khó để lý giải thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay là do các nguyên nhân trực tiếp sau đây: a) Xét từ phía chủ thể thực thi pháp luật, do năng lực của các thiết chế thực thi pháp luật còn yếu, mà một trong những nguyên nhân là do chất lượng nguồn nhân lực của bộ máy công quyền nói chung cũng như của các cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật nói riêng còn nhiều hạn chế, cả về năng lực chuyên môn cũng như phẩm chất đạo đức và ý thức trách nhiệm. Đây là hệ quả trực tiếp của việc tuyển dụng công chức hiện đang bị chi phối nặng nề bởi các tệ nạn tiêu cực như chạy chức chạy quyền, lót tay, “con ông cháu cha”, “nhất thân nhì quen tam thần tứ thế” dẫn đến sự tha hóa, lộng quyền, coi thường pháp luật, bất chấp pháp luật của một bộ phận cán bộ công chức ngay ở chính các cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật. Một khi các thiết chế thực thi pháp luật không đủ sức mạnh để điều tiết các quan hệ xã hội thì việc hình thành trong xã hội thói quen không tuân thủ pháp luật, cùng với đó là tâm lý nhờn luật, coi thường pháp luật là điều hiển nhiên. Và như một qui luật tất yếu, sự suy giảm lòng tin vào luật pháp sẽ tỉ lệ thuận với sự gia tăng cách hành xử theo “luật rừng”, bởi đó là giải pháp mà người dân buộc phải lựa chọn để bảo vệ mình trong việc giải quyết các tranh chấp. b) Xét từ phía người dân – đối tượng chịu sự điều chỉnh của pháp luật, phần đông người Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự hình thành thói quen, lối sống và nguyên tắc ứng xử thượng tôn pháp luật, do thực tế hiện nay việc thực thi pháp luật không nghiêm minh nên người dân không tin tưởng vào pháp luật, né tránh pháp luật, tìm cách lách luật hoặc thờ ơ với pháp luật. Trên đây là những nguyên nhân trực tiếp của thực trạng tiêu cực trong văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay. Bởi vậy, muốn thiết lập lại kỉ cương phép nước thì đòi hỏi phải có sự nỗ lực cả từ hai phía: người dân và nhà nước, trong đó vấn đề mấu chốt theo chúng tôi, trước hết là cần phải nâng cao năng lực của hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật của nhà nước. Nếu luật pháp đủ chặt chẽ, việc thi hành luật pháp đủ nghiêm minh, hình phạt đủ nặng để có sức răn đe, quan chức các cấp đủ gương mẫu, bộ máy nhà nước đủ trong sạch thì các hiện tượng tiêu cực trong xã hội sẽ được kiểm soát; tình trạng tội phạm lộng hành sẽ không còn lý do để tồn tại, và tỉ lệ nghịch với điều đó, ý thức tôn trọng pháp luật và niềm tin của người dân đối với pháp luật cũng sẽ được củng cố, gia tăng. Tuy nhiên, từ góc nhìn văn hóa có thể thấy, những nguyên nhân trực tiếp để lý giải về thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay đều có căn nguyên sâu xa từ nền tảng văn hóa truyền thống. Bởi vậy, để lý giải những căn nguyên của thực trạng văn hóa pháp luật hiện nay, vấn đề quan trọng là cần phải tìm ra cái mạch ngầm chi phối từ truyền thống đến hiện tại, qua đó để nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ bản chất giữa văn hóa với pháp luật, và cũng để từ đó có những giải pháp mang tính nền tảng cho công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.

CHƯƠNG 2
SỰ TÁC ĐỘNG CỦA VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
ĐẾN VĂN HÓA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Mang trong mình những giá trị nhân loại, nhưng khái niệm văn hóa không tồn tại nếu không gắn với một chủ thể (cá nhân/cộng đồng) xác định, bởi văn hóa là sản phẩm của sự ứng xử của con người với một môi trường tự nhiên và xã hội cụ thể. Trong quá trình tương tác với tự nhiên và xã hội, do nhu cầu tự nhiên để sinh tồn, con người luôn vừa biết tận dụng những điều kiện thuận lợi, lại vừa biết ứng phó để thích nghi trong những điều kiện bất lợi. Có thể nói, hành trình sống của con người là một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa một bên là khát vọng vươn tới sự hoàn thiện các giá trị nhân văn, nhân bản (được tiêu chí hóa dựa trên các giá trị Chân – Thiện – Mỹ) với một bên những nhu cầu bản năng, thực dụng cũng luôn luôn thường trực. Do vậy, để thích nghi và ứng phó với những điều kiện tự nhiên và xã hội cụ thể để sinh tồn, văn hóa của một dân tộc luôn bao gồm trong nó tính hai mặt: tích cực và tiêu cực. Đặc biệt, khi những điều kiện xã hội đã thay đổi mà những thói quen, lối sống, cách tư duy, ứng xử chưa thay đổi kịp để thích nghi thì nó sẽ trở thành lực cản đối với sự phát triển, đó là khi nó bộc lộ mặt tiêu cực. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng thừa nhận rằng: Việt Nam có những truyền thống tốt và cả những truyền thống xấu. Truyền thống tốt là những nét đẹp trong văn hóa dân tộc, mặc dù nảy sinh trong quá khứ, nhưng hiện nay vẫn còn phù hợp với chuẩn mực của đời sống xã hội và có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Còn truyền thống xấu là những gì trong di sản văn hoá dân tộc đã trở nên lạc hậu lỗi thời, không còn phù hợp, đã trở thành lực cản cho sự phát triển của dân tộc. Truyền thống tốt và truyền thống xấu - hai mặt đối lập này tồn tại đan xen, chồng chéo, gây những tác động đa chiều, đa diện đến đời sống xã hội. Bởi vậy, đối với di sản văn hóa truyền thống cần phải có sự đánh giá theo quan điểm lịch sử, cụ thể và biện chứng để tránh một cái nhìn lý tưởng hóa, ca ngợi một chiều, hay ngược lại, là thái độ phủ nhận truyền thống một cách cực đoan. Một cách nhìn biện chứng về văn hóa truyền thống sẽ cho thấy, cùng một đặc trưng văn hóa nhưng có thể được xem là tích cực hay tiêu cực tùy thuộc vào từng thời điểm lịch sử, cụ thể, tùy thuộc vào từng góc nhìn khác nhau. Chúng ta tự hào với những giá trị truyền thống của dân tộc đã được kết tinh qua hàng ngàn năm lịch sử như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, ý chí tự lực tự cường, đức tính cần cù, sáng tạo, đức tính lạc quan, lòng nhân ái, vị tha... Đó là niềm tự hào chính đáng và cần thiết. Song cũng từ đây, ở nhiều người hình thành thói quen chỉ biết ca tụng một chiều về “truyền thống tinh hoa”, “đạo lý tốt đẹp” để tự huyễn hoặc mình. Trước thách thức của công cuộc hội nhập để phát triển, đã đến lúc chúng ta cần nhận thức về các di sản của truyền thống một cách khách quan, toàn diện và thấu đáo hơn. Bản lĩnh và sức sống của một dân tộc cũng được chứng tỏ ngay khi chúng ta dám nhìn thẳng vào sự thật, biết dũng cảm để thừa nhận những nhược điểm, khiếm khuyết của mình. Bởi “một dân tộc càng mạnh, càng vươn cao về mặt đạo đức, thì nó càng dũng cảm nhìn vào những mặt non yếu và những thiếu sót của mình bấy nhiêu. Một dân tộc yếu hèn hoặc già cỗi, tàn tạ đến mức không thể tiến lên được nữa thì chỉ thích ca tụng mình và chúa sợ nhìn vào những vết thương của mình, vì nó biết rằng đó là những vết tử thương, rằng thực tại của nó không phải là một cái gì phấn khởi, rằng nó chỉ có thể tìm thấy những niềm an ủi giả dối trong sự đánh lừa mình thôi. Một dân tộc vĩ đại, đầy sức sống không như vậy được” (Bielinski). Trên tinh thần ấy, GS Trần Quốc Vượng đề nghị “cho phép chính thức vạch ra những mặt bất cập của căn tính và tâm thức tiểu nông Việt Nam trước thách thức của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá”.
Hiện nay chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền trên nền tảng của văn hóa truyền thống với sự chi phối của ba yếu tố hạt nhân, đó là: văn hóa nông nghiệp lúa nước, Nho giáo và Phật giáo. Bầu khí quyển văn hóa đậm đặc chất phương Đông này đã tồn tại hàng ngàn năm, thẩm thấu trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ kinh tế, chính trị, tư tưởng, đến đạo đức, lối sống, thói quen, tâm lý, tình cảm, cách tư duy, ứng xử của nhiều thế hệ cha ông cho đến tận ngày nay, trong đó không chỉ bao gồm những phẩm chất tinh hoa mà còn cả những cặn bã cần phải tẩy chay, loại trừ khi nó không còn phù hợp trong điều kiện mới. Do đó, bên cạnh những giá trị tốt đẹp của truyền thống hiện đang phát huy sức mạnh trong công cuộc hiện đại hóa đất nước thì lại cũng còn đó không ít những căn tính tiểu nông, những nhược điểm của truyền thống đang di căn sâu sắc trong tâm lý cộng đồng dưới dạng những thói quen, tập quán, những nếp suy nghĩ, những lề thói làm ăn, những cách ứng xử… Đó chính là những trở lực tạo nên sự trì níu nặng nề cho công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay nói riêng và công cuộc đổi mới để phát triển nói chung. Bởi vậy, trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, không chỉ dừng lại ở việc nhận diện thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay, mà chúng tôi sẽ truy tìm về đầu mối cuối cùng để chỉ ra căn nguyên sâu xa từ nền tảng văn hóa truyền thống đã chi phối đến sự ứng xử tiêu cực đối với pháp luật của người Việt hiện nay. Đó cũng là cơ sở cho việc đề xuất những giải pháp có tính nền tảng để có thể từng bước chữa trị từ gốc cho những căn bệnh xã hội của cả cộng đồng mà xem ra đã đến hồi báo động.
2.1. Sự tác động của văn hóa nông nghiệp lúa nước
Chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền trên nền tảng của một xã hội nông nghiệp cổ truyền với sự chi phối của nhân tố gốc là phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước, theo đó, thành phần cư dân tuyệt đại bộ phận là nông dân, sinh sống trong không gian làng xã. Điều kiện đặc thù này đã tồn tại hàng ngàn năm, đã tạo nên nền tảng văn hóa của dân tộc Việt với thói quen, lối sống của cư dân nông nghiệp lúa nước, được bảo lưu, làm thành mạch ngầm xuyên suốt chiều dài không gian và thời gian của dân tộc Việt. Diện mạo của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước biểu hiện qua những đặc trưng có tính trội như: tính cộng đồng và ứng xử trọng tình; lối sống tự trị khép kín và thói quen ứng xử “phép vua thua lệ làng”; tư duy tiểu nông chủ quan, cảm tính và lối ứng xử mềm dẻo, linh hoạt, tùy tiện, …Tất cả đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, đạo đức, tạo nên lối sống, thói quen, tâm lý, tình cảm, cách tư duy, ứng xử của nhiều thế hệ người Việt Nam. Những đặc trưng này của văn hóa truyền thống hàm chứa cả mặt tích cực và tiêu cực trong tác động đối với sự phát triển hiện nay của đất nước, trong đó có văn hóa ứng xử với pháp luật.
2.1.1. Tính cộng đồng
Nói đến văn hóa Việt Nam là nói đến văn hóa làng xã, đó là đơn vị cộng đồng đóng vai trò nền tảng trong tổ chức xã hội Việt Nam truyền thống. Do vậy, làng trở thành một không gian văn hóa có vị trí đặc biệt quan trọng, là cái nôi hình thành nên những đặc trưng bản sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam. GS. Trần Quốc Vượng khẳng định: văn hóa Việt Nam cổ truyền, về bản chất là một nền văn hóa xóm làng [59, 71].
Đặc trưng nổi trội của văn hóa làng xã Việt Nam là tính gắn kết cộng đồng vô cùng bền chặt, được hình thành trên nền tảng của hai mối quan hệ: huyết thống (Một giọt máu đào hơn ao nước lã) và láng giềng (Bán anh em xa mua láng giềng gần). Nếu phương thức sản xuất gốc của người phương Tây là nghề chăn nuôi du mục, để rồi từ đó hình thành nên lối sống du cư, là cơ sở cho sự hình thành và phát triển ý thức cá nhân từ rất sớm, thì trái lại, văn hóa Việt Nam (và phương Đông nói chung) được hình thành trên nền tảng của nghề nông trồng trọt. Phương thức sản xuất này đòi hỏi cư dân phải ở định cư ổn định, không thích sự di chuyển, đổi thay, là cơ sở hình thành lối sống đề cao tính cộng đồng. Thêm nữa, nghề trồng lúa nước phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên (hạn hán, lũ lụt), mà để chống chọi với tự nhiên thì một vài cá nhân hay một gia đình không gánh vác nổi (Lụt thì lút cả làng, đắp đê chống lụt thiếp chàng cùng lo). Do sự chi phối của cuộc sống định cư và phương thức sản xuất khiến cho người Việt, như một đòi hỏi tự nhiên và tất yếu để sinh tồn, đã hình thành mối gắn kết cộng đồng cao. Thêm vào đó, do nằm ở vị trí địa lý có tính chiến lược cho nên từ khi lập quốc, dân tộc Việt đã phải đoàn kết tạo nên sức mạnh để đương đầu với nạn ngoại xâm. Đây cũng là một đặc điểm làm gia tăng thêm tính cộng đồng của người Việt. Tính cộng đồng, do vậy, đã in đậm dấu ấn trong tâm lý, tính cách, trong bản sắc văn hóa Việt Nam, chi phối đến đời sống và các quan hệ ứng xử của người Việt xưa và nay với cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
Không thể phủ nhận mặt tích cực của tính cộng đồng khi nó tạo nên truyền thống ứng xử tốt đẹp của dân tộc ta, đó là tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, là sự gắn bó, sẻ chia lúc khó khăn hoạn nạn. Tuy nhiên, trong bối cảnh quá độ để chuyển sang một xã hội đô thị và công nghiệp, từ góc nhìn của văn hóa ứng xử với pháp luật, tính cộng đồng lại là tác nhân gây nên nhiều hệ lụy tiêu cực nhiều hơn là tích cực.
Vậy tính cộng đồng như là một đặc trưng nổi trội của văn hóa truyền thống đã có ảnh hưởng như thế nào đến văn hóa ứng xử với pháp luật của người Việt hiện nay?
Trước hết, có thể thấy, mặt trái của tính cộng đồng đó là sự phủ nhận, ức chế sự phát triển cá tính, kìm hãm vai trò cá nhân. Ý thức về quyền cá nhân vì vậy không được phát triển, thay vào đó là sự phụ thuộc, sự phục tùng của cá nhân vào cộng đồng. Có thể nói, trong cuộc đời một người Việt từ nhỏ đến lớn, trước hết và trên hết là thành viên của cộng đồng (từ cộng đồng nhỏ như gia đình, dòng họ, phe, giáp, phường, hội đến cộng đồng lớn như làng, nước). Chỉ với tư cách thành viên của cộng đồng thì con người mới có giá trị. Nói cách khác, thang bậc giá trị, tư cách của một con người chỉ được xác định trong các quan hệ cộng đồng. Khi giao lưu với văn hóa Trung Hoa, Nho giáo được tích hợp vào văn hóa Việt Nam lại càng góp phần làm mờ nhạt tính cá nhân, củng cố thêm tính cộng đồng và làm sâu sắc thêm ý thức về bổn phận, khiến cho con người cá nhân chưa bao giờ được coi là thực thể độc lập với quyền được khẳng định và phát triển nhân cách, tài năng và chính kiến của mình.
Từ góc độ tâm lý, nhiều nhà nghiên cứu nhận xét: người Việt Nam từ khi biết nói cho đến khi trưởng thành rất ít xưng “tôi”. Cái tôi của người Việt trong quá khứ chủ yếu được gửi gắm, phó thác vào “cái ta” và cái “mọi người”, hòa lẫn trong cộng đồng, tan biến vào các quan hệ xã hội. Ý thức về trách nhiệm, bổn phận bị kiểm soát bởi dư luận, kết tinh thành đạo lý, thể hiện thành truyền thống. Đó cũng là lý do để nhà nghiên cứu Phan Ngọc khẳng định: con người Việt Nam là con người “nhân cách luận”, thực chất cũng là con người của cộng đồng, chứ không phải là con người “cá nhân luận” như phương Tây. Chính sự lệ thuộc của cá nhân vào cộng đồng làm cho con người trở nên thụ động trong các quan hệ, không dám khẳng định bản lĩnh và nhân cách cá nhân, không dám nhân danh cá nhân để đòi hỏi những quyền lợi chính đáng cho mình. Sự hạn chế phát triển ý thức cá nhân của một lối sống đề cao tính cộng đồng vẫn còn để lại dư vị nặng nề trong xã hội hiện đại và gây khó khăn đáng kể cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền, khi mục đích của nhà nước pháp quyền sinh ra để trước hết và trên hết nhằm đảm bảo các quyền và tự do của cá nhân. Xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam vì vậy đã gặp phải lực cản từ những đặc điểm của một nền tảng văn hóa mà ở đó con người bị ràng buộc vào vô vàn các nghĩa vụ, không có chỗ cho sự khẳng định các quyền cá nhân. Đó là nguyên do giải thích vì sao người Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự tự giác và chủ động trong việc sử dụng các quyền cá nhân của mình trong ứng xử với các quan hệ xã hội và quan hệ pháp luật, mặc dù đã được hiến pháp và pháp luật qui định.
Từ phía nhà nước cũng có thể thấy, các nhà lập pháp của chúng ta hiện nay khi hoạch định các chính sách pháp luật ở tầm vĩ mô cũng chưa quan tâm thích đáng đến các quyền và tự do của cá nhân, mà thường chỉ quan tâm đến lợi ích cộng đồng, sự phụ thuộc của cá nhân vào cộng đồng. Điều này được phản ánh qua việc các luật phục vụ quản lý nhà nước thường được ưu tiên hơn so với các luật liên quan đến lợi ích tư nhân. Các văn bản pháp luật ghi nhận các quyền của công dân nhưng nhiều khi lại thiếu cơ chế thực hiện, khiến cho các quyền lợi hợp pháp của công dân nhiều khi bị hạn chế bởi chính công quyền. Đó là chưa nói đến một thực tế là, các cơ quan công quyền vẫn chưa từ bỏ được thói quen hách dịch, sách nhiễu công dân, hành xử theo kiểu “ban ơn”, khiến cho công dân khi thực hiện các quyền chính đáng của mình nhưng lại phải quỵ lụy, khúm núm trước công quyền. Bởi vậy, để tạo dựng được thói quen, ý thức về việc pháp luật phục vụ người dân trong nhà nước pháp quyền thì trước hết phải tạo những điều kiện để phát triển ý thức cá nhân. Một khi ý thức cá nhân đã được phát triển thì nhà lập pháp phải hướng các quy định pháp luật về các quyền tự do của con người, của cá nhân, công dân và đến lượt mình công dân cũng phải chủ động thực hiện các quyền của mình, với tư cách là của mình mà nhà nước thừa nhận chứ không phải nhà nước ban cho. Cũng chính từ lối sống đề cao tính cộng đồng và hạ thấp vai trò cá nhân là nguyên nhân làm cho con người trở nên thụ động trong các quan hệ, ít dám làm và cũng từ đó cũng không dám chịu trách nhiệm trước cộng đồng và người khác, từ đó hình thành tâm lý và thói quen dựa dẫm, ỉ lại. Tâm lý và thói quen ứng xử này được đúc kết và lưu truyền trong dân gian qua các câu thành ngữ quen thuộc như: Nó lú có chú nó khôn; Sẩy cha có chú, sẩy mẹ bú dì; Con dại cái mang… Tâm lý dựa dẫm, ỉ lại được nâng lên một bước cao hơn là lợi dụng các mối quan hệ thân quen, họ hàng để tìm kiếm sự che chở, nâng đỡ, mưu cầu lợi ích cá nhân. Tư tưởng “Một người làm quan, cả họ được nhờ”, “Nhất thân nhì quen tam thần tứ thế” trở thành một thói quen ứng xử rất phổ biến ở thời kỳ phong kiến, trong xã hội truyền thống Việt Nam. Hiện nay, mặc dù quan niệm trên đã bị hạn chế bởi một số điều luật (Luật công chức) nhưng trên thực tế, tư tưởng này vẫn còn tồn tại rất phổ biến trong suy nghĩ và hành vi của xã hội như một căn bệnh trầm kha. Thực trạng “con ông cháu cha”, nạn “ô dù”, “chủ nghĩa thân quen”, sự kéo bè kết cánh dựa trên mối quan hệ huyết thống, bà con, đồng hương… tuy không tồn tại một cách chính thống và công khai nhưng ai cũng có thể thấy căn bệnh này đã và đang là một vấn nạn xã hội, hàng ngày đang âm thầm, âm ỉ tác động tiêu cực, làm suy giảm sức mạnh của hệ thống cơ quan công quyền, gây nên nhiều bức xúc trong xã hội.
Chính các mối quan hệ “con ông cháu cha”, “gia đình trị”, “thân quen”, “thần thế” này đã góp phần làm vô hiệu hóa pháp luật khi người ta kết bè cánh để thực hiện những hành vi tham nhũng, tiêu cực, thậm chí vi phạm pháp luật ở ngay chính những người nhân danh bảo vệ và thực thi pháp luật. Khi tiêu cực bị phát hiện thì người ta lại tìm cách che chắn cho nhau vì sợ “rút dây động rừng”, bởi vậy các hành vi sai phạm, tiêu cực không bị tố giác, không bị truy cứu trách nhiệm đến nơi đến chốn, không được xử lý nghiêm theo luật pháp, để rồi kết quả cuối cùng cũng chỉ là “hòa cả làng”. Tính cộng đồng cũng là căn nguyên sâu xa để lý giải về một thực tế hiện đang diễn ra rất phổ biến trong các lĩnh vực của đời sống xã hội ta hiện nay. Đó là tình trạng ứng xử kiểu “cha chung không ai khóc”, “lắm sãi không ai đóng cửa chùa”, được biểu hiện rất phổ biến trong các hành vi ứng xử hàng ngày, mà biểu hiện cụ thể là sự thờ ơ, chối bỏ, đùn đẩy trách nhiệm, lãng phí của công.
Có thể nói, trách nhiệm cá nhân có một vai trò quan trọng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý trong các quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, trong đời sống pháp luật ở Việt Nam hiện nay, tính chịu trách nhiệm cá nhân xét cả từ hai phía người dân và các cơ quan công quyền còn rất thấp, mà nguyên nhân trực tiếp là do chủ nghĩa bình quân tập thể của cơ chế cũ để lại, nhưng nguyên nhân sâu xa là do sự cản trở từ lối sống cộng đồng và các hệ lụy của nó trong văn hóa nông nghiệp truyền thống.
2.1.2. Lối ứng xử nặng tình nhẹ lý
Cuộc sống cộng đồng ở làng xã đã tạo ra sự đoàn kết gắn bó, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, đó là ngọn nguồn của nếp sống “trọng tình” trong truyền thống ứng xử của người Việt, đó cũng là một nét nổi trội trong đặc trưng văn hóa truyền thống Việt Nam. Cả cuộc đời và qua nhiều đời, người dân quê Việt Nam chỉ làm ăn, sinh sống ở làng, mọi người hiểu nhau rành rẽ, thân quen, gắn bó với nhau từ tấm bé với hai mối quan hệ giằng chéo bền chặt là huyết thống (Một giọt máu đào hơn ao nước lã) và láng giềng “Bán anh em xa mua láng giềng gần”, “Hàng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau”. Yếu tố duy tình - lối sống giàu tình cảm trọng tình nghĩa là một nét đẹp trong truyền thống của dân tộc. "Vượt lên cả về không gian, thời gian là đặc điểm duy tình, duy nghĩa, duy cảm của con người Việt Nam trong mối quan hệ giữa người với người" (Trần Quốc Vượng). Truyền thống đó tạo ra cuộc sống hoà thuận, lấy tình nghĩa làm đầu; tình cảm trở thành thước đo giá trị trong mọi hành vi ứng xử của con người.
Vì quan hệ trong làng như một đại gia đình, ở đó lợi ích của một người gắn với lợi ích của cộng đồng, “phúc cùng hưởng, họa cùng chịu” nên khi có điều gì không hay xảy ra người ta không muốn “vạch áo cho người xem lưng” để khỏi “xấu chàng hổ ai”, từ đó đã hình thành nguyên tắc ứng xử tất yếu là phải che chắn, bảo vệ, “đóng cửa bảo nhau”, “tốt khoe, xấu che”, kể cả việc dung túng cho lỗi lầm. Cũng vì sự nể nang, sợ mất lòng nhau nên trong ứng xử người ta coi trọng nguyên tắc “dĩ hoà vi quý”, “chín bỏ làm mười”, “một điều nhịn, chín điều lành”. Sống trong môi trường mà tình cảm được coi là tiêu chí, là chuẩn mực ứng xử nên lâu dần hình thành lối sống dễ dàng thỏa hiệp, ứng xử nửa vời, cả nể, ngại va chạm, thiếu tính quyết đoán kiểu “sư nói cũng phải, vãi nói cũng hay”; “tháng ba cũng ừ, tháng tư cũng gật”. Khi xẩy ra mâu thuẫn thì dễ dàng tha thứ vì “đánh kẻ chạy đi không đánh kẻ chạy lại”. Lối ứng xử trọng tình nhẹ lý trở thành nguyên tắc cơ bản chi phối, điều tiết các mối quan hệ, khiến cho việc xử sự của con người thường chủ quan, tùy tiện, nặng về cảm tính nên thiếu tính nguyên tắc, được đúc kết và lưu truyền trong dân gian qua các câu thành ngữ quen thuộc như: “Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình”; “Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”; “Yêu nhau mọi việc chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”; “Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng méo”…
Việc xử lý các quan hệ theo tình cảm sẽ dẫn đến thiếu tôn trọng tính nguyên tắc, tùy tiện là một điều tất yếu. Truyền thống duy tình đã làm cho người ta có thể có nhiều cách ứng xử khác nhau trong cùng một hoàn cảnh, trong khi đó pháp luật lại là chuẩn mực chung để điều tiết các mối quan hệ một cách nghiêm khắc dựa trên tiêu chí khách quan và thống nhất. Bởi vậy, người ta dễ dị ứng với pháp luật, chỉ coi pháp luật là một giải pháp “cực chẳng đã”. Đó là một lý do khiến cho pháp luật bị vô hiệu hóa ngay từ trong suy nghĩ của mỗi cá nhân cho đến hành vi ứng xử phổ biến của cộng đồng trong xã hội Việt Nam truyền thống.
Cũng do lối sống nông nghiệp quần cư, khép kín sau lũy tre làng dựa trên các mối quan hệ thân tộc, láng giềng cùng với nền sản xuất nhỏ tự cung tự cấp khiến cho các quan hệ xã hội thuần nhất, có tính ổn định cao. Các quan hệ ứng xử cũng như các giao dịch dân sự chủ yếu dựa trên cơ sở của các chuẩn mực đạo đức, tình cảm và lòng tin mà không cần đến các bằng chứng có tính pháp lý. Nếu có mâu thuẫn, tranh chấp với nhau thì được giải quyết bằng con đường hòa giải hơn là kiện tụng, trên tinh thần nhường nhịn, cảm thông, “chín bỏ làm mười”, “dĩ hòa vi quí”. Xét về mặt tích cực, nguyên tắc ứng xử này giúp bảo vệ các mối quan hệ xã hội thân thuộc, củng cố tính cộng đồng và tinh thần đoàn kết, ít xảy ra các tranh chấp dân sự, duy trì sự ổn định của xã hội. Tuy nhiên, hệ quả tiêu cực là pháp luật không còn uy lực khi cái lý bị đẩy xuống hàng thứ yếu so với cái tình.
Không thể phủ nhận rằng, công lý trước hết và trên hết phải xuất phát từ nền tảng là lòng yêu thương, cho nên hiển nhiên là cái lý không thể đặt trong thế đối lập với cái tình. Tuy nhiên, trong một xã hội mà nếu cái tình ở vị trí được ưu tiên hơn, thậm chí lấn át cái lý thì pháp luật tất yếu sẽ không được coi là một công cụ quan trọng để điều tiết các quan hệ xã hội. Lối ứng xử ấy đối lập hoàn toàn với tinh thần "thượng tôn pháp luật", một đòi hỏi tất yếu của xã hội văn minh, hiện đại. Nhưng như đã phân tích ở trên, trong xã hội Việt Nam cổ truyền, cái truyền thống trọng tình hơn lý đã khiến cho pháp luật không phải là một cách giải quyết tranh chấp được ưa chuộng. Câu thành ngữ “vô phúc đáo tụng đình” thể hiện thái độ của người dân coi chuyện ra toà là một cái gì đó ghê gớm, làm tổn hại thanh danh và sứt mẻ tình cảm vì “một đời kiện, chín đời thù”. Do vậy, các hành vi tố giác tội phạm gần như không diễn ra khi người ta sợ dư luận hơn cả hình phạt. Một khi cái tình được đặt cao hơn cái lý thì nhu cầu sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho mình không trở thành một thói quen ứng xử phổ biến của người dân từ trong nhận thức cho đến hành vi. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến tâm lý thờ ơ, né tránh pháp luật, không xem pháp luật là cách giải quyết được ưu tiên, là công cụ bảo vệ quyền lợi cho mình. Cho đến ngày nay, người Việt cho đến ngày nay vẫn chưa có thói quen tìm đến pháp luật khi xảy ra các tranh chấp dân sự như một hành vi ứng xử phổ biến ở các nước có nền văn hóa pháp luật tích cực.
Trong giai đoạn hiện nay, văn hoá ứng xử "lấy cảm tình làm bản vị" của người Việt đang là một thách đố gay gắt khi đất nước đang bước vào tiến trình hội nhập quốc tế mà tinh thần "thượng tôn pháp luật" là điểm tựa của việc thực hiện những cam kết quốc tế. Ý thức tôn trọng pháp luật và tính chủ động sử dụng pháp luật với tính cách là yếu tố của văn hoá pháp luật có vai trò cực kỳ quan trọng đối với cơ chế hành vi của các chủ thể, nhưng đây lại là một trong những điểm yếu lớn nhất được nhận thấy trong thực tiễn pháp lý ở nước ta hiện nay. Bằng chứng là, đối với người dân và doanh nghiệp, việc giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế không cần đến pháp luật vẫn còn tồn tại ở một bộ phận không nhỏ, bởi số đông người dân vẫn e dè khi nói đến việc kiện tụng, giải quyết tranh chấp bằng luật pháp... Rất ít doanh nghiệp có luật sư, chuyên viên pháp chế chuyên trách làm công tác pháp lý, dự báo các vấn đề pháp lý nảy sinh (ngoại trừ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Luật sư Trần Đình Triển, Trưởng Văn phòng Luật sư Vì dân nhận xét: “… giới doanh nhân Việt Nam ít có thói quen sử dụng luật sư. Các doanh nghiệp có thói quen vướng đâu thì “chạy” bằng phong bì, mạnh hơn nhau bằng cái đó, chứ không phải đưa nhau lên trên bàn để giải quyết đúng - sai bằng luật pháp, nên các doanh nghiệp không cần thiết phải có bộ phận pháp chế để làm cố vấn cho họ. Điều này trái ngược hẳn với giới doanh nhân quốc tế”.
2.1.3. Lối sống trọng lệ hơn luật và thói quen ứng xử “phép vua thua lệ làng”
Để lý giải về thói quen ứng xử “phép vua thua lệ làng” mà hiện nay vẫn còn diễn ra rất phổ biến ở mọi nơi, mọi lúc trong xã hội, chúng ta phải trở về với căn nguyên sâu xa từ nền tảng văn hóa làng, nguồn gốc nảy sinh lối sống trọng lệ hơn luật.
Để phù hợp với phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước, người Việt sống quần tụ trong không gian làng quê, bao quanh làng là lũy tre và cổng làng, khiến cho làng nào biết làng ấy. Về kinh tế, mỗi làng tồn tại như một đơn vị kinh tế độc lập, khép kín, có khả năng tự túc tự cấp nên không có nhu cầu quan hệ giao thương với bên ngoài. Về tình cảm, các thành viên trong làng đều có quan hệ họ hàng, nên quan hệ giao lưu tình cảm cũng tự đầy đủ, khép kín trong phạm vi làng. Về phong tục, mỗi làng có luật tục (lệ làng, hương ước) riêng. Về mặt hành chính, mỗi làng có bộ máy hành chính tự quản, có vai trò và chức năng giải quyết mọi việc trong làng. Sự độc lập về không gian địa lý, về kinh tế, về bộ máy hành chính, về tình cảm, phong tục đã khiến cho mỗi làng tồn tại như một “tiểu vương quốc”, độc lập trong quan hệ với làng khác và tự quản trong quan hệ với quốc gia. Chính từ đây đã hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội như là một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa làng Việt. Nếu như tính cộng đồng có chức năng liên kết các thành viên trong cùng một làng (hướng ngoại), thì tính tự trị lại xác định sự tồn tại độc lập, khép kín giữa làng này với làng khác và tính tự quản của làng so với chính quyền trung ương (hướng nội). Tính tự túc tự cấp của nền kinh tế tiểu nông cùng với bộ máy hành chính tự quản đã khiến cho làng luôn có xu hướng “ly tâm” với chính quyền trung ương.
Tính độc lập, tự quản của làng thể hiện ở bộ máy hành chính của mỗi làng có chức năng giải quyết mọi việc trong nội bộ làng, trong đó Hội đồng Kỳ mục có chức năng như bộ phận lập pháp; Lý dịch có chức năng như bộ phận hành pháp; hương ước - luật tục - lệ làng có vai trò như luật pháp. Phong tục, luật lệ làng nào được người dân làng đó tuân theo, triều đình thường không can thiệp đến.
Trong suốt cả ngàn năm xây dựng quốc gia tự chủ, mặc dù các triều đại phong kiến đã xây dựng và thực thi nhiều bộ luật, song bên cạnh đó vẫn duy trì và tôn trọng các hương ước, lệ làng. Hương ước đa số các làng đều khẳng định: “… nước có luật nước, làng có hương ước riêng…”, hoặc “nhà nước có pháp luật quy định, còn dân có điều ước riêng…”.. Bởi vậy, trong xã hội truyền thống Việt Nam, từ hàng ngàn năm, luật tục, lệ làng (còn gọi là hương ước hay khoán ước) đã tồn tại song song với luật pháp của nhà nước (Lệ làng / phép nước), là công cụ để duy trì bộ máy tự quản trong tổ chức cộng đồng làng xã, hương ước được xây dựng trên cơ sở phong tục, tập quán của làng xã được “qui phạm hoá” dưới hình thức văn bản, được nhà nước thừa nhận để trở thành qui tắc xử sự chung của mỗi làng, phản ánh tâm lý, phong tục, tập quán, nếp sống đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cư dân trong làng, tạo nên một áp lực tinh thần bất khả kháng, thành “lệ làng”. Vì thế, luật tục – hương ước – lệ làng đã ràng buộc mỗi thành viên trong làng vào một nề nếp, qui củ, tạo thành nếp sống chung ổn định trong không gian khép kín của mỗi làng. Do đó, hương ước thực chất là một dạng tồn tại của pháp luật rất đặc thù trong chế độ làng xã tự trị của xã hội Việt Nam truyền thống. Tất cả các làng ở Bắc bộ và phần lớn các làng ở Trung bộ đều có hương ước. Hiện nay ở Viện Văn hóa dân gian còn lưu giữ khoảng 5.000 bản hương ước. Mỗi bản có khoảng trên dưới 100 điều qui định về các mối quan hệ cơ bản của người dân trong cộng đồng làng xã: quan hệ với nhà nước (nghĩa vụ đóng thuế, đi lính); quan hệ cộng đồng (xóm giềng; hôn nhân; gia đình; tang ma;…).
Lệ làng tồn tại song song với “phép nước” và được nhà nước thừa nhận như những văn bản pháp lý. Tuy nhiên, trong khi người dân trong làng ít hiểu về luật pháp của nhà nước thì lại rất am hiểu lệ làng và tuân thủ lệ làng một cách nghiêm ngặt, thậm chí còn coi “Phép vua thua lệ làng”.
Vậy vì sao lệ làng lại có hiệu lực hơn luật pháp của nhà nước?
Có thể chỉ ra các lý do sau đây:
1) Trong trường hợp “phép vua” và “lệ làng” thống nhất với nhau thì trong tổ chức làng xã đặc thù của Việt Nam, với lối sống và tập tục khác nhau, việc quản lý xã hội bằng hương ước, lệ làng có nhiều ưu thế hơn luật pháp, cụ thể là:
a) Hương ước, lệ làng là những điều qui ước trên cơ sở sự thống nhất của cư dân trong làng, gắn với hoàn cảnh, phong tục, tập quán lâu đời và đặc điểm của từng làng nên rất cụ thể, gần gũi, thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện, phù hợp với lối sống đặc thù của mỗi làng. Vì vậy lệ làng ăn sâu vào tâm thức của cư dân trong làng, được trao truyền một cách tự nhiên từ gia đình đến dòng họ, từ thế hệ này sang thế hệ khác, được tuân thủ như một quán tính tự nhiên.Trong khi đó, pháp luật là sản phẩm chủ quan của giai cấp cầm quyền, vừa mang tính áp đặt hành chính từ trên xuống, lại chỉ dừng lại ở khuôn khổ pháp lý chung cho cả quốc gia nên không thể áp dụng phù hợp cho mọi nơi, với mọi đối tượng trong hoàn cảnh làng xã Việt Nam tự trị và khép kín với lối sống và tập tục khác nhau. Bởi vậy mặc dù luật pháp về cơ bản là thống nhất với luật tục, nhưng người dân tìm thấy lợi ích của mình ở các qui tắc cụ thể của làng chứ không phải ở các qui phạm chung của luật pháp nhà nước.
b) Nếu trong văn bản pháp luật thời phong kiến, tất cả các điều khoản đều gắn với qui định về mức hình phạt cụ thể, phần nhiều là những hình phạt nặng nề, tàn khốc, xâm phạm thô bạo, thậm chí là dã man đến thân thể người phạm luật (như đánh roi, đánh gậy, chém, thắt cổ, thích chữ vào mặt, chặt chân tay…) thì ở hương ước, lệ làng lại thể hiện tinh thần khoan dung, độ lượng. Bằng chứng là, trong nhiều trường hợp không ghi mức hình phạt cụ thể đối với người vi phạm, mà thay vào đó là những lời khuyên răn chung chung, nặng về răn đe, khuyến cáo, khuyên răn, khuyến thiện. Các hình phạt được qui định phổ biến là phạt tiền, đánh roi, truất ngôi thứ, tẩy chay các sinh hoạt cộng đồng, hạ uy tín nhằm đánh vào danh dự, sĩ diện của cá nhân và dòng họ, hoặc hình phạt cao nhất là đuổi khỏi làng. Đó là sự hoá giải một cách uyển chuyển tính chất khô cứng, lạnh lùng, hà khắc, đôi khi là tàn bạo của luật pháp nhà nước.
Vì người dân nhìn thấy ở lệ làng khả năng bảo vệ mình, còn luật nước thì đối lập với mình cho nên, trong con mắt của người dân, lệ làng được trọng hơn luật nước. Trong khi lệ làng được người dân tự giác tuân thủ thì “phép vua” muốn vào được làng phải chịu sự “khúc xạ”, do vậy chỉ còn là những hình bóng mờ nhạt, hiệu lực của nó cũng từ đó mà bị giảm đi rất nhiều.
c) Ngoài ra, một lý do nữa khiến cho người dân trong khi hiểu rất rõ về lệ làng thì lại ít có điều kiện để tiếp cận với luật pháp, do điều kiện ngày xưa giao thông đi lại khó khăn, chủ yếu là đi ngựa hay chạy bộ nên các chiếu chỉ do nhà vua ban ra để đến với người dân cũng phải mất một thời gian khá dài. Trong khi đó phương tiện thông tin lại rất hạn chế, khó có điều kiện để phổ biến, tuyên truyền rộng rãi cho dân chúng. Thêm nữa, do mặt bằng dân trí rất thấp, phần lớn là mù chữ, vì vậy người dân không có điều kiện tiếp cận trực tiếp các văn bản pháp luật của nhà nước mà phải qua các khâu trung gian nên khó tránh khỏi “tam sao thất bản”. Tình trạng dân thiếu hiểu biết về pháp luật, “mù luật”, do đó, là hiện tượng phổ biến trong xã hội phong kiến Việt Nam.
2) Về nguyên tắc, “phép vua” và “lệ làng” không chỉ thống nhất mà còn mâu thuẫn nhau, bởi lẽ, luật nước luôn có thiên hướng khẳng định sự quản lý (cai trị) có tính tập trung, thống nhất, hạn chế quyền tự chủ của làng xã. Ngược lại, hương ước có xu hướng xác lập và củng cố quyền tự chủ, tự quản cộng đồng. Do vậy, về phương diện hình thức, hương ước luôn được quan niệm là sự biểu hiện quyền “tự trị” của các làng xã cổ truyền Việt Nam. Luật nước có xu hướng xác lập sự thống nhất của không gian pháp lý trong phạm vi toàn quốc gia. Hương ước, lệ làng lại làm gia tăng tính khép kín đối của cuộc sống các làng xã, tạo ra sự chia cắt không gian pháp lý giữa nước với làng, giữa các làng với nhau. Bởi vậy, nếu quy định nào của luật nước mà xâm hại đến lợi ích cục bộ của làng xã, đặc biệt xâm hại đến các lợi ích của các thế lực chức sắc địa phương thì thường bị vô hiệu hoá và không được tuân thủ. [Xem: 62]
Như vậy, có thể thấy rằng luật pháp và hương ước, lệ làng “là hai mặt của một thể chế chính trị pháp lý lưỡng tính phản ánh mối tương quan của sự thống nhất quốc gia và quyền tự quản của các cộng đồng, làm quân bình sự phát triển của mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi một đơn vị làng xã và của cả quốc gia”, trong đó, “hương ước, lệ làng là môi trường văn hoá pháp lý đặc thù vừa để phát huy hiệu lực của luật nước và vừa hạn chế luật nước trong mối quan hệ bảo lưu các nét đặc trưng của lối sống cộng đồng ở một quốc gia nông nghiệp” [62].
Tóm lại, trong cả hai trường hợp, dù mâu thuẫn hay thống nhất đều có những căn cứ cho thấy, hương ước, lệ làng là một công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ cộng đồng và quản lý làng xã có hiệu lực hơn luật nước. Với tất cả những thế mạnh ấy, sự hiện diện của hương ước đã làm mờ nhạt vai trò, thậm chí làm cản trở khả năng điều chỉnh của luật nước. Trong tổ chức làng xã Việt Nam truyền thống, hương ước, lệ làng về cơ bản là một hiện tượng văn hoá độc đáo với rất nhiều các giá trị tích cực đã góp phần giữ gìn kỷ cương, trật tự xã hội, thuần phong, mỹ tục với các quy định mang tính cách đặc thù của mỗi địa phương. Với luật lệ riêng, làng xã Việt Nam đã tồn tại như một vương quốc thu nhỏ với sự cố kết rất bền vững. Hương ước chính là hệ thống giá trị chuẩn mực của làng xã, nó quy định cung cách ứng xử, lối sống của cá nhân trong làng, tạo nên sự đồng nhất, mà trước hết là từ trong mỗi dòng họ.
Tuy nhiên, việc quản lý xã hội bằng hương ước, lệ làng đã dẫn đến hệ quả là, cư dân nông thôn đã từ bao đời quen sống với luật tục mà không quen sống theo luật pháp. Trong tâm thức người dân, phép nước là những gì còn xa lạ trong khi hằng ngày, hằng giờ họ chỉ đối mặt với lệ làng, với những bổn phận mà lệ làng đặt ra cho họ. Dần dần điều này tạo ra tâm lý trọng lệ hơn luật. Trong cái không gian khép kín của làng quê với đầy rẫy các quy tắc về hệ thống đẳng cấp, ngôi thứ trong làng, về các hủ tục cưới xin, ma chay, khao vọng, hội hè… đã được giới chức dịch trong làng lợi dụng để trói buộc người nông dân vào vô số các nghĩa vụ, trách nhiệm, cấm đoán và hạn chế, tạo nên một lối sống chỉ theo lệ làng, coi thường luật nước theo đúng ý nghĩa “phép vua thua lệ làng”.
Bên cạnh đó, lệ làng chứa đựng không ít các quy tắc mang tính tiêu cực thể hiện tư tưởng cục bộ địa phương như “Nhập gia tùy tục”, “Trâu ta ăn cỏ đồng ta”, “Ta về ta tắm ao ta…”,… sức mạnh của lệ làng cùng với tính chất tư hữu cá nhân của nền sản xuất nhỏ đã dẫn đến tư duy, lối sống nặng về vun vén cá nhân thực dụng, thiển cận, kiểu “Đèn nhà ai nấy rạng”, “Ăn cây nào rào cây ấy”, “Ở đình nào chúc đình ấy”, “Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”, ít quan tâm đến lợi ích của người khác, làng khác, và lại càng không quan tâm đến lợi ích đại cục ở tầm quốc gia. Các thói quen cổ hủ này thẩm thấu vào chiều sâu của tư duy và ứng xử, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác như một chuẩn mực đã trở thành “thâm căn cố đế”. Tính cục bộ của văn hóa tiểu nông khiến cho con người thiếu ý thức xã hội, chỉ quan tâm tới những gì liên quan trực tiếp đến lợi ích thiển cận của mình “ăn cây nào, rào cây ấy’; “đèn nhà ai nấy rạng”; “của mình thì giữ bo bo, của người thì để cho bò nó ăn”. Vì vậy, nó là thủ phạm của sự thờ ơ với lợi ích cộng đồng, cũng là nguyên nhân của tính đố kỵ, tham lam, bè nhóm, cục bộ, của kiểu tư duy tiểu nông manh mún, nhỏ lẻ, không có tầm nhìn xa mang tính chiến lược...
Trên đây chúng tôi đã lý giải những nguyên nhân tạo nên lối sống trọng lệ hơn luật và thói quen không tuân thủ luật pháp của người Việt truyền thống mà những di hại của nó để lại cho hôm nay còn vô cùng nặng nề. Biểu hiện rõ nhất của tư duy “Phép vua thua lệ làng”, của lối sống trọng lệ hơn luật hiện nay đó là tư tưởng cục bộ địa phương, là hiện tượng bè phái, cấu kết, bao che để bênh vực, bảo vệ quyền lợi cho nhau; đó là tư tưởng chỉ vì lợi ích cục bộ của cái cộng đồng nhỏ mà không quan tâm đến lợi ích của số đông, của quốc gia. Những tư tưởng và hành vi ứng xử này đang tồn tại rất phổ biến trong xã hội ta, mà biểu hiện cụ thể là:
a) Nếu ngày xưa coi trọng lệ làng hơn phép nước thì ngày nay hiện tượng “trên bảo dưới không nghe”, những hành vi ứng xử coi thường pháp luật, bất chấp pháp luật vẫn đang diễn ra vô cùng phổ biến trong xã hội ta với rất nhiều những hình thức biểu hiện khác nhau, không chỉ từ phía người dân mà cả các cơ quan công quyền. Trong thực tế, nhiều cơ quan nhà nước tự đặt ra các qui tắc riêng, trên danh nghĩa là cụ thể hóa pháp luật nhưng về thực chất là ngược lại với tinh thần của pháp luật, hoặc vi phạm pháp luật, gây khó khăn cho công dân trong việc thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. PGS. TS Nguyễn Đăng Dung gọi đó là “lệ làng thời hiện đại” [xem: 12].
b) Việc tuyển chọn và bố trí nhân sự trong bộ máy công quyền còn theo “chủ nghĩa thân quen”, còn nặng tư tưởng “con ông cháu cha”, “Một người làm quan cả họ được nhờ” [xem: 13]. Ảnh hưởng của tư tưởng cục bộ, hẹp hòi, bè phái, của “chủ nghĩa thân quen” thể hiện rõ nhất trong các quan hệ quyền lực. Sự kéo bè, kéo cánh, đưa anh em dòng họ và những người thân quen vào cơ quan nhà nước; lập bè phái, phe nhóm ở địa phương... là những biểu hiện của tư duy cục bộ, hẹp hòi, vì lợi ích phe nhóm mà làm suy giảm sức mạnh của bộ máy công quyền, làm hạn chế vai trò của pháp luật, làm ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích chung vì sự phát triển của xã hội, của đất nước.
Nếu trong nền sản xuất nhỏ tự cung tự cấp, tư tưởng này hình thành như là một sự thích nghi tối ưu và tất yếu thì ngày nay, khi đất nước bước vào quá trình hội nhập, chuyển sang một xã hội đô thị và công nghiệp thì những lối sống, thói quen tư duy ấy của truyền thống đã không còn thích hợp. Không những không còn thích hợp, nó còn như những tảng đá lớn đang cản đường đi lên của dân tộc và là nguyên nhân của những hành vi ứng xử tiêu cực. Bởi vậy, để hội nhập và phát triển cần phải thoát ra khỏi những hạn chế của văn hoá làng xã trên tinh thần “gạn đục khơi trong”.
2.1.4. Tư duy tiểu nông tùy tiện, chủ quan, cảm tính
Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, cho đến nay, về cơ bản, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, đó cũng chính là cơ sở hình thành tư duy sản xuất nhỏ của người Việt Nam. Cuộc sống nông nghiệp ở định cư đã đặt con người trong nhiều mối quan hệ phải ứng xử, từ tự nhiên đến xã hội. Công việc sản xuất nông nghiệp lúa nước phụ thuộc cùng lúc vào nhiều yếu tố tự nhiên như đất đai, nguồn nước, thời tiết, khí hậu..., khiến cho người nông dân phải:
Trông trời trông đất trông mây
Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng (Ca dao)
Trong khi tự nhiên thì lại thay đổi thất thường, “sớm nắng chiều mưa” buộc con người phải biết ứng phó linh hoạt với từng tình huống cụ thể. Cùng với đó, cuộc sống cộng đồng lại ràng buộc con người trong nhiều mối quan hệ “dây mơ rễ má” đan bện chằng chịt, từ láng giềng đến anh em, họ hàng, thông gia… đòi hỏi con người phải biết ứng xử khéo léo trong từng mối quan hệ. Thực tế ấy đòi hỏi con người phải có cái nhìn biện chứng trong mối quan hệ tổng hòa giữa các yếu tố “thiên thời - địa lợi - nhân hòa”, phải biết ứng phó linh hoạt cho phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Từ đó hình thành kiểu tư duy tổng hợp – biện chứng và ứng xử mềm dẻo, linh hoạt như là một đặc điểm tiêu biểu của tư duy và lối sống nông nghiệp. “Về nhận thức, cuộc sống nông nghiệp luôn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau đã khiến con người phải chú trọng tới các mối quan hệ giữa chúng, dẫn tới lối tư duy biện chứng” [30,17 ].
Thêm nữa, do tính chất thời vụ của công việc nhà nông nên thời gian và nhịp sống nông nghiệp không ổn định và nề nếp, qui củ như lối sống của cư dân công nghiệp. Lúc mùa vụ thì căng thẳng, khẩn trương, không giờ giấc; ngược lại, lúc nông nhàn thì lại rỗi rãi, dư thừa thời gian, từ đó tạo nên lối sống tùy tiện, không theo một nguyên tắc, nề nếp, qui trình có sẵn. Đó là những lý do đó khiến cho “văn hóa Việt Nam chứa đựng sự kết hợp kỳ diệu của cái ổn định và cái linh hoạt” [58]. Trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, nhà nghiên cứu Ðào Duy Anh cũng từng nhận xét rằng, người Việt “bắt chước, thích ứng và dung hòa (...) rất tài” [1, 24]. Còn nhà nghiên cứu Cao Xuân Huy thì cho rằng người Việt “có cái đặc tính mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt, lưu động, như nước. (...) Đó là cái khả năng thích ứng vô hạn của nó (...). Chính cái khả năng thích ứng (...) là cái tính ưu việt, cái bí quyết sinh tồn của dân tộc ta" [30, 363 – 364].
Như vậy, các học giả, với những cách nói khác nhau, nhưng đều từ quá trình phát triển của thực tiễn xã hội và nề nếp sinh hoạt mà rút ra kết luận khái quát về một đặc điểm quan trọng trong bản tính của dân tộc ta. Gần đây, các nhà nghiên cứu Phan Ngọc, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Huệ Chi, Trần Ðình Hượu, v.v…, trong các công trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam đều nhấn mạnh tính linh hoạt, mềm dẻo trong ứng xử như là một đặc điểm nổi bật của người Việt từ xưa đến nay. Cách tư duy, ứng xử này ăn sâu vào trong tiềm thức cộng đồng, được đúc kết và lưu truyền trong dân gian qua những câu thành ngữ, tục ngữ như: “Tùy cơ ứng biến”; “Nhập gia tùy tục”; “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”; “Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”; “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”…
Tư duy biện chứng và ứng xử mềm dẻo, linh hoạt, tùy cơ ứng biến hiển nhiên là có nhiều lợi thế cho sự thích nghi với mọi tình huống xã hội và ứng phó với tự nhiên trong điều kiện của cuộc sống nông nghiệp khiến con người luôn phải ở trong tình thế bị động. Tuy nhiên, cũng chính từ đây đã sản sinh ra nhiều hệ lụy tiêu cực trong thói quen, lối sống và các hành vi ứng xử của người Việt truyền thống, trước hết, và cũng dễ nhận thấy nhất, đó là lối sống tùy tiện, thiếu tính kỉ luật, vô nguyên tắc, từ đó dẫn tới tính tư biện trong nhận thức và tuỳ tiện trong hành động. Đặc điểm này hiển nhiên là không thích hợp với điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và nhu cầu hội nhập kinh tế hiện nay. Thói quen ứng xử tùy tiện, thiếu tính kỷ luật, vô nguyên tắc lại càng không thể chấp nhận trong một xã hội có tổ chức, nề nếp, kỷ cương với nguyên tắc thượng tôn pháp luật, trong khi những căn tính tiểu nông này hiện đang di căn rất nặng nề trong một bộ phận không nhỏ người Việt Nam hiện nay và đang tác động tiêu cực đến thái độ và hành vi ứng xử với pháp luật. Do việc người ta đã quen với nhiều cách ứng xử khác nhau trong cùng một hoàn cảnh, nên dẫn đến thói quen “lách luật” mà hiện nay đang tồn tại phổ biến với nhiều dạng biến tướng khác nhau như: làm ăn gian dối, tệ nạn hối lộ, đi cửa sau để giải quyết công việc, chạy chức chạy quyền, chạy án… Đây thực chất là biểu hiện của lối sống coi thường pháp luật, thậm chí vô hiệu hóa pháp luật ngay từ trong suy nghĩ và hành vi của mỗi người, để rồi lâu dần trở thành như một thói quen hiện đã được định danh bằng cụm từ “văn hóa chạy” [xem: 71].
Cũng từ lối sống nông nghiệp với tư duy nặng về kinh nghiệm chủ quan, cảm tính, thói quen tùy tiện, lối sống thiển cận “nước đến chân mới nhảy” nên đã hình thành ở người Việt kiểu tư duy manh mún, nhỏ lẻ, thiếu tư duy lý luận, không có tính chiến lược và tầm nhìn xa. Đặc điểm này của văn hóa tiểu nông đã và đang hiện diện rõ nét trong cách thức điều hành và hoạch định chính sách của các nhà quản lý của chúng ta hiện nay. Biểu hiện rõ nhất là sự tùy tiện, manh mún, thiếu định hướng trong việc qui hoạch đô thị, giao thông, khu công nghiệp… kéo theo những hệ luỵ nặng nề về kinh tế, xã hội và môi trường cho hiện tại và cả mai sau. Trong lĩnh vực hoạch định chính sách pháp luật và thực thi pháp luật, sự tùy tiện, chủ quan, cảm tính, sự thiếu đồng bộ và nhất quán trong việc soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật cũng như việc tổ chức và thực thi pháp luật đang là những hạn chế rất lớn, gây nên nhiều tác động tiêu cực đối với đời sống xã hội, làm gia tăng thói quen hành xử không thượng tôn pháp luật, suy giảm niềm tin vào tính hiệu lực của pháp luật. Đó là nguyên nhân trực tiếp khiến cho lời tuyên truyền, kêu gọi “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” hiện chỉ đang là khẩu hiệu chứ chưa trở thành một thói quen, một văn hoá ứng xử.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và đẩy mạnh hội nhập quốc tế trước hết đòi hỏi hệ thống pháp luật phải được xây dựng đồng bộ, thống nhất, hoàn thiện mới có thể hòa nhập bình đẳng trong sân chơi quốc tế. Vì vậy, khi cái chất tiểu nông với thói quen, lối sống tùy tiện, vô kỷ luật, với kiểu tư duy manh mún, nhỏ lẻ, thiếu tầm nhìn chiến lược đang có sức sống tiềm tàng trong tâm thức mỗi người Việt Nam, từ nông thôn đến thành thị, từ nông dân đến trí thức, từ thường dân đến quan chức thì đó không chỉ là những thủ phạm đang níu kéo, cản trở công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền mà còn là một rào cản rất lớn đối với đất nước trong quá trình hội nhập để phát triển.
Bên cạnh những yếu tố văn hóa truyền thống là hệ quả của phương thức sản xuất nông nghiệp thì Nho giáo và Phật giáo, vốn là những yếu tố văn hóa ngoại sinh nhưng đã hòa nhập, thẩm thấu vào tầng sâu của bản sắc văn hóa Việt Nam để cùng làm nên một dòng chảy mang tên “văn hóa Việt”. Bởi vậy, xem xét sự tác động của văn hóa truyền thống đến văn hóa ứng xử với pháp luật của người Việt hiện nay không thể bỏ qua sự chi phối của Nho giáo và Phật giáo.
2.2. Sự tác động của tư tưởng Nho giáo
Mỗi thời đại đều có một hệ tư tưởng chính trị, theo đó là những chuẩn mực đạo đức làm nền tảng cho sự tổ chức xã hội. Dưới chế độ phong kiến tập quyền ở Trung Hoa cũng như các quốc gia chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Trung Hoa, trong đó có Việt Nam, Nho giáo là hệ tư tưởng thống trị xã hội. Hơn 1.000 năm du nhập vào Việt Nam là khoảng thời gian quá đủ để Nho giáo Trung Hoa để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng văn hóa Việt để từ đó tác động sâu sắc và toàn diện đến tư tưởng lối sống, cách tư duy và hành vi ứng xử của người Việt.
2.2.1. Nho giáo với tư tưởng trong đạo lý hơn pháp lý
Nho giáo là hệ tư tưởng đề cao vai trò của đạo đức và lễ giáo trong quản lý xã hội, trái ngược với tư tưởng pháp trị của Pháp gia chủ trương dùng pháp luật để cai trị xã hội. Nho giáo xem đạo đức là nền tảng cho chính trị, trong đó, “Tam cương” (quân - thần, phụ - tử, phu- phụ), “Ngũ thường” (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) và thuyết “Chính danh” được coi là những nguyên lý thường hằng, bất biến, là các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở để đánh giá hành vi xử sự của con người theo đúng vị thế xã hội của mình, và đó cũng là nền tảng để xây dựng xã hội thái bình, trật tự và ổn định. Từ đó Nho giáo chủ trương đề cao đức trị hơn pháp trị trong đường lối trị nước. Theo Khổng Tử: “Cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thuận lòng quy phục” [dẫn từ: 54, 109].. Khổng Tử quan niệm rằng, pháp luật chỉ khiến người ta vì sợ mà không dám làm điều ác. Khi có thể giấu, có thể tránh được sự trừng phạt thì những kẻ xấu vẫn cứ làm điều ác. Đức trị thì khác. Khi chuẩn mực đạo đức thành hành vi tự nguyện của dân thì họ không phạm tội nữa. Không phải vì sợ pháp luật mà sợ xấu hổ trước người khác, sợ bị cắn rứt lương tâm. Bởi vậy, trong kho tàng lý luận của mình, Nho giáo ít bàn đến luật pháp và cũng không coi trọng vai trò của luật pháp trong việc trị nước.
Cũng theo Khổng Tử, đạo đức chỉ được củng cố bằng những nghi thức và những qui tắc trong đời sống, bởi vậy, đức trị còn được bổ sung bằng lễ trị. Trong Tứ thư và Ngũ kinh của Khổng giáo đầy những lời răn dạy và những qui tắc trong ứng xử hàng ngày, từ cách thức ăn mặc, nói năng, chào hỏi cho đến thái độ của bề tôi đối với vua, con cái đối với cha mẹ, vợ đối với chồng. Lễ trị là biện pháp để thực hiện đức trị. Dùng lễ để tạo thành nề nếp, qui củ trong thói quen, lối sống một cách tự nhiên, tức là để tạo thành cái bầu không khí đạo đức. Khổng tử dạy rằng: “Đạo đức nhân nghĩa không có lễ không thành, dạy bảo sửa đổi phong tục không có lễ không đủ, xử việc phân tranh kiện tụng không có lễ không định, học làm quan, nhờ thầy, không có lễ không thân, xếp đặt thứ vị trong triều, cai trị quân lính, đi làm quan, thi hành pháp lệnh không có lễ không thành kính…” [dẫn từ: 31,115]. Như vậy, mục đích của lễ là định ra tôn ti trật tự trong gia đình, xã hội và quốc gia. Ngoài ra, lễ cũng còn có vai trò tiết chế hành vi của con người: “Người giàu sang biết lễ thì không dâm tà, không kiêu căng, người bần tiện biết lễ thì không nản chí, không làm bậy. Người làm vua chúa biết lễ thì mới trị nước, yên dân. Lễ đối với việc trị nước cũng như cái cân đối với việc nặng, nhẹ, cái dây đối với việc thẳng, cong, cái qui, cái củ đối với vật tròn, vật vuông vậy” [31,119].
Ưu thế của việc trị nước bằng đức trị - lễ trị so với pháp trị, theo Khổng giáo là ở chỗ: “Dùng lễ có lợi hơn pháp luật, có thể ngăn cấm được việc chưa xẩy ra, còn dùng pháp luật thì chỉ để trị cái việc đã rồi, bởi vậy thánh nhân chỉ trọng lễ chứ không trọng hình” [31, 119].
Tóm lại, Nho giáo tuy không phủ nhận vai trò của pháp luật trong việc giữ gìn trật tự xã hội, song lại hướng tới nguồn gốc của sự bình an hơn là dùng hình luật để đe dọa hoặc trừng phạt điều ác khi nó đã xảy ra. Khi xã hội được tổ chức theo triết lý đức trị, lấy sự tự giáo dục theo “nhân, nghĩa, lễ trí, tín” để làm nguyên tắc “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” thì pháp luật bị đẩy xuống hàng thứ yếu là lẽ hiển nhiên. Cả ngàn năm tồn tại của thể chế nhà nước phong kiến trên nền tảng của tư tưởng Nho giáo cũng đủ để ăn sâu vào tâm thức cộng đồng về tư tưởng “trọng đức” hơn “trọng pháp”.
2.2.2. Nho giáo với truyền thống “vô tụng”
Hệ quả của quan điểm đề cao đạo lý hơn pháp lý tất yếu đã hình thành tư tưởng “vô tụng” trong việc thực hành đường lối trị nước của Nho giáo. Có thể nói, chủ trương “vô tụng” của Nho giáo được thực thi từ gốc, đó là sự triệt tiêu quyền cá nhân – cơ sở nảy sinh ý thức phản kháng của con người, và cũng là nguyên nhân nảy sinh việc kiện tụng.
Suốt hàng ngàn năm lịch sử, với “Tam cương”, “Ngũ thường” và “Thuyết chính danh”, Nho giáo đã thiết lập và duy trì trong xã hội phương Đông (nói chung) và Việt Nam (nói riêng) một trạng thái ổn định đến mức trì trệ. Cùng với truyền thống đề cao tính cộng đồng, con người cá nhân trong xã hội truyền thống Việt Nam vốn đã bị khuất lấp sau gia đình, họ hàng, làng, nước; thêm vào đó, Nho giáo đã định hình một chuẩn mực đạo đức xã hội mà ở đó, sự tồn tại của cá nhân con người đồng nghĩa với các nghĩa vụ trong những quan hệ quyền lực được sắp xếp theo tôn ti trật tự, bắt đầu từ gia đình, mở rộng ra làng xã cho đến quốc gia. Nền văn hoá gia trưởng ấy đã cắm rễ rất sâu vào trong máu thịt của mỗi người, khiến cho khái niệm về cá nhân cũng như quyền cá nhân bị lu mờ, thậm chí bị triệt tiêu. Bởi vậy, cố học giả Trần Đình Hượu cho rằng, con người Việt Nam là “con người chức năng trong xã hội luân thường… Trong xã hội luân thường, con người không phải là những cá nhân có thân thể, có dục vọng, có quyền lợi, có cá tính…” [7, 28-29]. Tuy cũng có ý thức về nghĩa vụ tương hỗ giữa người cai trị và kẻ bị cai trị, song trong tư tưởng trị nước của Nho giáo lại không có một sự ràng buộc nào (cả về đạo lý lẫn pháp lý) đối với nhu cầu tôn trọng và bảo vệ tự do cá nhân [xem: 22, 192-193]. Vì vậy, Nho giáo thực chất là công cụ tư tưởng của bộ máy cai trị phong kiến chuyên quyền nhằm bảo vệ và duy trì quyền lực với sự phân chia thứ bậc, tôn ti, phân biệt kẻ sang, người hèn, bắt “kẻ dưới” phải làm tròn bổn phận, phải biết phục tùng người trên; áp đặt ý chí của quan quyền buộc thần dân phải tuân phục, không được phản biện, càng tuyệt đối không được chống đối.
Trong thể chế quân chủ phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, tư tưởng, giáo lí của Nho giáo đã chi phối đến tổ chức bộ máy hành chính và các nguyên tắc điều hành nó, trong đó vua là người “thay trời hành đạo” cho nên có quyền lực tối thượng. Vua là người đặt ra pháp luật, là người có quyền cho dân sống hay bắt dân chết. Khi vua ra sắc lệnh, chiếu, dụ, triều đình và quan lại các cấp nhất nhất phải thi hành, dù sắc dụ đó đúng hay sai, hợp hay không hợp với thực tế. Từ đội ngũ quan lại cho đến thần dân phải tuyệt đối tuân lệnh vua; quan bề dưới phải phục tùng quan bề trên theo tôn ti trật tự. Trong thể chế nhà nước ấy, không có sự phân quyền rõ rệt giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; không có các cơ quan dân cử độc lập với chính quyền để kiểm tra, giám sát. Dân hầu như không được biết, không được tham gia vào các hoạt động của nhà nước mà chỉ có nhiệm vụ tuân thủ các quyết định của những người đứng đầu các cấp chính quyền. Đó là cơ sở tồn tại và duy trì kiểu nhà nước quân chủ nặng tính quan liêu, chuyên chế, trong đó quan lại đặc quyền đặc lợi, áp bức dân, xa dân và đối lập với quyền lợi của dân, mà biểu hiện rõ nhất là ở những thời kì xã hội đi vào suy vong, quan lại tha hóa, biến chất.
Vì không có cơ sở pháp lý nào ràng buộc trách nhiệm của chính quyền đối với quyền lợi của chúng dân, cũng như nhu cầu tôn trọng và bảo vệ lợi ích cá nhân nên trong xã hội phong kiến Việt Nam, quan hệ giữa nhà nước và công dân là quan hệ bất bình đẳng: nhà nước thì có độc quyền áp đặt, còn công dân thì phải có nghĩa vụ đối với nhà nước. Đó là một xã hội thần dân, trong đó cho ý thức công dân không có cơ hội phát triển. Không những thế, do quyền lực không bị kiểm soát bởi pháp luật cho nên đã tạo điều kiện cho sự lộng quyền; ở đó, công lý thuộc về kẻ mạnh, thuộc về “bề trên”; ở đó, kẻ có quyền có thể tùy tiện bắt người hay tha người, bỏ tù hay chém giết. Thêm vào đó, do mặt bằng dân trí thấp, pháp luật lại không có điều kiện để phổ biến rộng rãi nên người dân không am hiểu pháp luật, bởi vậy khi xử án dân không biết là đúng luật hay không đúng luật, tất cả đều phụ thuộc vào quan tòa. Như vậy, có thể thấy, cùng với tính cộng đồng trong văn hóa làng xã, Nho giáo đã góp phần làm mờ nhạt thêm, thậm chí triệt tiêu quyền cá nhân, ý thức công dân cùng với tinh thần phản kháng của con người, thay vào đó là tâm lí “thượng tôn quan quyền”.
Hệ quả là, thể chế nhà nước phong kiến cùng với cung cách làm việc của bộ máy hành chính và đội ngũ quan lại các cấp là một hệ thống quan liêu, cồng kềnh, xa rời và thậm chí đối lập với quyền lợi của nhân dân. Trong đế chế quyền lực không được kiểm soát chặt chẽ bởi các qui tắc pháp lý ấy, quan lại được coi như cha mẹ dân, còn phận dân đen chỉ là “con sâu cái kiến”, chỉ có bổn phận cam chịu, phục tùng, để rồi sự kiện tụng (họa hoằn lắm nếu có xảy ra) thì cũng chỉ là “con kiến mà kiện củ khoai”!
Cùng với việc phủ nhận quyền cá nhân và triệt tiêu ý thức phản kháng của con người, sự tồn tại của hệ thống pháp luật phong kiến với vai trò là công cụ thực thi quyền lực của giai cấp thống trị cũng là nguyên nhân tạo nên ở người dân tâm lí “dị ứng” với pháp luật khi họ ý thức được rằng pháp luật không phải để bảo vệ lợi ích cho mình, và cùng với đó là thái độ thờ ơ, né tránh pháp luật.
Mặc dù trên lý thuyết thì Nho giáo phê phán tư tưởng pháp trị, nhưng trong thực tế, các triều đại phong kiến Việt Nam lại kết hợp giữa đức trị với pháp trị. Tuy nhiên, pháp luật thời phong kiến cũng do nhà Nho xây dựng nên, vì vậy luật pháp của các triều đại phong kiến Việt Nam có chức năng chủ yếu là bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị và quyền lợi của dòng họ thống trị. Điều này được thể hiện rõ trong nội dung và tính chất của các điều luật. Luật pháp qua các thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều được xây dựng trên nguyên tắc phải bảo đảm quyền uy và sự bền vững của ngôi vua, bởi vua là thiên tử, là con trời, ngôi vua là tôn nghiêm nhất, không ai có thể xâm phạm được. Trong các tội được xem xét để miễn giảm hình phạt thì những người có quan hệ thân thích với nhà vua được quan tâm trước tiên. Thêm nữa, theo quan niệm của Nho giáo, quan tòa và các đạo luật là những công cụ cần thiết để trừng phạt các loại tội phạm chứ không cần thiết để điều chỉnh quan hệ giữa những người trung thực. Vì vậy, về cơ bản các bộ luật của các nhà nước phong kiến Việt Nam là những bộ luật hình sự. Minh chứng rõ ràng nhất là tên các bộ luật thường có kèm theo chữ “hình”: Luật Hình thư, Quốc triều Hình luật, Lê triều Hình luật. Trong các bộ luật hình luật, dù có điều chỉnh về những quan hệ dân sự nhưng vẫn kèm theo chế tài hình sự. Khi luật pháp đồng nghĩa với hình phạt, mà lại là những hình phạt hà khắc nên trong con mắt người dân, pháp luật chỉ là công cụ trừng trị. Về tính chất khắc nghiệt của pháp luật thời Trần, sách Cổ sự sao nói: “Hình pháp nhà Trần rất tàn khắc, kẻ ăn trộm và kẻ trốn tránh thì bị chặt ngón chân, giao cho người sự chủ được thỏa ý sự trị, hoặc cho voi giầy chết” [7, 290]. Các mức án thường dùng nhục hình như thích chữ vào mặt, chặt bàn tay, xẻo thịt… làm cho người phạm tội phải chịu nhiều khổ nhục. Không những thế, pháp luật còn qui định trách nhiệm liên đới, một người gây án khiến cả họ phải chịu vạ lây một cách oan uổng. Với những hình phạt dã man, tàn bạo và bất công như vậy nên từ đó người dân đã hình thành tâm lý né tránh đối với pháp luật, chống đối pháp luật, sợ hãi chốn pháp đình, coi đó chỉ là nơi trừng phạt, coi việc phải ra tòa là một việc ghê gớm, là tai họa, là vạn bất đắc dĩ, là “vô phúc đáo tụng đình” [23, 14]. “Cửa quan” vì vậy trở thành chốn xa lạ và đáng sợ đối với dân chúng. Đó là lý do khiến người Việt Nam (cũng như các quốc gia chịu ảnh hưởng của Nho giáo) không muốn dính dáng đến chuyện kiện tụng. Nếu có xung đột, tranh chấp xảy ra giữa các cá nhân thì thường được giải quyết bằng con đường hòa giải và thỏa thuận dựa trên các nguyên tắc đạo đức là chính.
Hơn nữa, vì chủ trương đức trị nên việc sử dụng pháp đình cũng không được Nho giáo coi trọng. Khổng Tử nói: “Xét xử việc kiện tụng, ta cũng như người. Tất phải làm cho dân không có việc kiện tụng” [4, 23]. Từ đó Nho giáo khuyến khích “vô tụng”. Việc kết hợp, lồng ghép giữa đức trị với pháp trị, khiến cho sự phân cách giữa đạo lý và pháp lý là một ranh giới mờ, nhập nhằng, nhiều khi khó phân định. Bằng chứng là, trong các bộ luật thời phong kiến Việt Nam, “Tam cương”, “Ngũ thường” là đạo lý nhưng cũng đồng thời là pháp lý.
Cũng do pháp trị không phải là tư tưởng chủ đạo để quản lý xã hội cho nên trong xã hội phong kiến Việt Nam, pháp luật vừa thiếu đồng bộ, lại bị áp dụng một cách tùy tiện, chủ quan, cảm tính, thậm chí còn bị một bộ phận quan lại thao túng, lũng đoạn. Thêm vào đó, việc khó phân định ranh giới, phạm vi giữa đạo lý và pháp lý cũng là một nguyên nhân dẫn đến hệ quả là việc xét xử các vụ án thường không công bằng, khó tránh khỏi hiện tượng “tội đồng luận dị” (tội giống nhau nhưng phán xử lại khác nhau) do tính chất chủ quan, cảm tính, tùy tiện.
Như vậy, suốt cả một chiều dài lịch sử hàng nghìn năm, trên nền tảng Nho giáo, các triều đại phong kiến Việt Nam đã mặc nhiên coi pháp luật như là công cụ của công quyền, là hình phạt để cai trị dân chúng khiến cho người dân không nhìn thấy ở pháp luật sự bảo vệ mình mà lại là sự đối lập với mình. Tất cả những lý do trên đây đã khiến cho người dân có thái độ nghi ngờ, thiếu tin tưởng vào tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Khi pháp luật trong con mắt người dân không còn đại diện cho công lý, không bảo vệ quyền lợi công bằng và chính đáng cho dân, thì cùng với đó là tâm lí “dị ứng” với pháp luật, thờ ơ hoặc sợ hãi, né tránh chốn pháp đình, coi việc sử dụng pháp luật trong các quan hệ xã hội chỉ là một giải pháp “cực chẳng đã” khi không thể khác được. Từ đó, thái độ và kinh nghiệm ứng xử tiêu cực đối với pháp luật được dân gian đúc kết và truyền tụng qua các câu thành ngữ, tục ngữ đã trở thành quen thuộc như: * Muốn nói oan làm quan mà nói * Muốn nói gian làm quan mà nói * Miệng quan trôn trẻ * Con kiến mà kiện củ khoai * Dân kiện quan như trứng chọi đá… * Nén bạc đâm toạc tờ giấy * Kim ngân phá luật lệ * Tiền bạc đi trước, mực thước đi sau * Được vạ thì má đã sưng * Được kiện mười bốn quan năm,thua kiện mười lăm quan chẵn * Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ * Đã đưa đến trước cửa công,ngoài thì là lý nhưng trong là tình * Nhất quen, nhì thần, tam thần, tứ thế * Vô phúc đáo tụng đình
Vì pháp luật không dành cho những phận người “thấp cổ bé họng”, những “con sâu cái kiến” cho nên người dân đành quay về cố thủ sau luỹ tre làng, bằng lòng với lệ làng, hương ước tuy giản dị đơn sơ và có phần hoang dã nhưng lại gần gũi, thân thuộc, và quan trọng hơn là nó phản ánh được ý chí, nguyện vọng và phù hợp với quyền lợi của họ.
Tóm lại, Nho giáo với tư tưởng trọng đạo lí hơn pháp lí, đề cao đức trị hơn pháp trị cùng với hàng loạt những hệ lụy của nó, khi tích hợp, thẩm thấu vào văn hóa bản địa Việt Nam, cùng với thói quen, lối sống cộng đồng, trọng tình nhẹ lí, trọng lệ hơn luật vốn đã rất nặng nề, lại càng góp phần củng cố thêm thái độ ứng xử tiêu cực với pháp luật của người Việt. Tư tưởng, giáo lí của Nho giáo dung hợp với nền tảng văn hóa nông nghiệp lúa nước tiểu nông đã hình thành những tư tưởng ăn sâu, quện chặt trong tư duy và cách ứng xử của người Việt truyền thống, đó là lối sống không theo chuẩn mực pháp lý, là thói quen hành xử không thượng tôn pháp luật. Truyền thống này vẫn còn di căn rất rõ nét trong xã hội hiện đại, từ người dân cho đến cách hành xử của các cơ quan công quyền [54, 211].
Bước sang thế kỉ XX, ở Việt Nam, với sự diệt vong của chế độ phong kiến và sự giải thể của nền giáo dục cũ, Nho giáo không còn chỗ dựa để tồn tại và chi phối như một hệ tư tưởng chính thống. Tuy nhiên cho đến nay, dấu ấn của Nho giáo vẫn còn luân lạc trong dân gian một cách tự do và phân tán trong những giá trị văn hóa bền vững để vẫn không thôi chi phối, ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta hiện nay, trong đó có văn hóa ứng xử với pháp luật. Những tư tưởng, tâm lý và thói quen hành xử đã trở thành truyền thống hiện vẫn còn di căn khá nặng nề trong xã hội ta, được biểu hiện rõ nét trong hành xử quyền lực, khi tinh thần thượng tôn pháp luật vẫn chưa thực sự được coi trọng, khi thái độ “thượng tôn quan quyền” vẫn tồn tại khá phổ biến. Bằng chứng là: a) Trong mối quan hệ ứng xử giữa cơ quan công quyền với người dân, một bộ phận công chức khi thực thi nhiệm vụ mà nhân dân giao phó vẫn còn thái độ “ban ơn”, nghĩ mình là bề trên nên hách dịch, ra oai, nhũng nhiễu nhân dân, còn thái độ ứng xử phổ biến của người dân trước cơ quan công quyền là rụt rè, e ngại, không chủ động khi thực hiện các quyền chính đáng và hợp pháp của mình. Đó là lực cản vô hình nhưng tác động của nó thì lại không kém phần sâu sắc và nặng nề cho công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Nhận xét về thực trạng này, tác giả Bùi Ngọc Sơn cho rằng: “Chính từ ý thức ấy của Nho giáo mà quan hệ giữa người dân và các cơ quan công quyền vẫn luôn là mối quan hệ xin – cho, ban phát chứ không phải mối quan hệ bình đẳng theo quy định pháp luật. Thậm chí tư tưởng Nho giáo còn khiến người ta chỉ biết phục tùng quyền lực nhà nước chứ không biết đến vị thế bình đẳng giữa mình và nhà nước. Người dân Việt Nam vẫn luôn có thói quen “Thượng tôn quan quyền”. Trước công quyền, trước cán bộ nhà nước, người dân thường có tâm lý sợ, cả nể, ứng xử rụt rè, không dám nêu lên ý kiến của mình, thích a dua theo người trên, khi quan lại vi pham đến quyền lợi của mình thì cũng xem như “con kiến kiện củ khoai”. Mặt khác cũng từ đó mà quan chức cũng thấy được địa vị “bề trên” của mình mà hách dịch, những nhiễu, gây ảnh hưởng đến quyền lợi nhân dân. Có thể nói ở nước ta người dân thực hiện quyền như thực hiện nghĩa vụ còn cán bộ Nhà nước khi thực hiện nghĩa vụ trước dân như là thực hiện quyền [xem: 57, 108]. Còn từ phía Nhà nước, tác giả Võ Khánh Vinh trong bài viết “Mối quan hệ giữa xã hội - cá nhân - nhà nước trong nhà nước pháp quyền…” nhận xét: “…pháp luật hiện hành đang đề cao vị trí và lợi ích của nhà nước; cá nhân công dân là đối tượng quản lý của nhà nước. Điều này thể hiện rõ trong các qui định pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau, khi trong đời sống chính trị - xã hội, quyền lợi của nhà nước được đặt trước quyền lợi công dân” [78, 8]. Thực tế này cho thấy, công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay phải được bắt đầu từ gốc, đó là phải thay đổi quan niệm, nhận thức của cả người dân và các cơ quan công quyền về mối quan hệ bình đẳng giữa người dân và nhà nước.
b) Như một di căn của truyền thống, quan niệm coi pháp luật là công cụ của giai cấp thống trị, là nơi phản ánh ý chí của giới cầm quyền vẫn còn để lại dư âm trong tư duy của các nhà làm luật hiện nay, khi pháp luật vẫn còn nặng tính chất “vị nhà nước” mà chưa thực sự hướng về phía lợi ích của người dân. Trong tâm lí của người làm luật ởn ước ta từ xưa đến nay vốn vẫn nặng quan niệm cho rằng luật sinh ra là để quản lý, để cấm đoán chứ không phải là để bảo vệ quyền con người, nay lại được củng cố hơn khi chúng ta hiện vẫn đề cao tính giai cấp của pháp luật. Từ đây, thói quen chống đối pháp luật của người dân vốn rất nặng nề trong truyền thống, nay vẫn tiếp tục đeo bám dai dẳng cũng là điều dễ hiểu. Một truyền thống được tạo dựng trong cả nghìn năm tất nhiên không dễ dàng mất đi trong xã hội hiện đại, khi mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền là để chống lại sự lạm quyền của công quyền để bảo vệ con người. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật có vai trò tối thượng, nó đứng trên nhà nước để kiểm soát nhà nước, là công cụ để người dân sử dụng bảo vệ mình, chống lại sự lạm quyền của nhà nước. Tuy nhiên, việc xây dựng một nhà nước pháp quyền theo đúng nghĩa của nó vốn rất thuận lợi ở phương Tây trên nền tảng của nền văn hóa đề cao tính cá nhân thì đối với Việt Nam công cuộc này đã và đang gặp phải những lực cản không nhỏ từ rất nhiều những hệ lụy của đặc thù của văn hóa phương Đông, trên nền tảng của tư tưởng chính trị và đạo đức Nho giáo.
c) Vì chịu ảnh hưởng của tâm lý truyền thống nên người dân Việt Nam hiện nay đa phần vẫn chưa có thói quen tìm đến tòa án để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình [xem: 57, 128]. Ngay cả doanh nghiệp là nơi có nhu cầu cao về pháp luật nhưng vẫn chưa có thói quen làm việc với luật sư trong việc hoạch định các chính sách, tìm kiếm đối tác hay đảm bảo tính pháp lý trong các quyết định kinh doanh của mình. Khi có tranh chấp xảy ra thì việc giải quyết bằng con đường phi tư pháp, thậm chí là phi pháp được coi trọng hơn là tìm đến tòa án, bởi trong ý thức và thói quen hành xử phổ biến của người Việt hiện nay, việc khởi kiện tại tòa chỉ là một giải pháp bất đắc dĩ trong nhiều con đường giải quyết tranh chấp khác. Đặc biệt, sự hiện diện của tòa hành chính hiện nay xem ra đang có vẻ như là một sự “xa xỉ”, thừa thãi, bởi trong xã hội truyền thống của người Việt không có chuyện “dân kiện quan”, cho nên hiện nay người dân vẫn chưa quen, chưa kịp quen, chưa nhìn thấy ở thiết chế dân chủ đó khả năng bảo vệ mình khi phải đối đầu với nhà nước.
Tóm lại, được nảy sinh và nuôi dưỡng trong môi trường văn hóa nông nghiệp tiểu nông cùng với tư tưởng Nho giáo và thể chế chính trị của nhà nước quân chủ quan liêu nên lối sống trọng lệ hơn luật, trọng đức hơn trọng pháp được bảo lưu lâu bền trong suốt cả hàng ngàn năm phong kiến, ăn sâu vào tâm lý, tư duy, ứng xử của xã hội, trở thành lực cản không nhỏ đối với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay ở nước ta nói riêng cũng như công cuộc hiện đại hóa đất nước nói chung.
2.3. Phật giáo với tư tưởng hiếu hòa, nhân ái, vị tha
Khác với Nho giáo, Phật giáo du nhập vào nước ta bằng con đường hòa bình nên đã nhanh chóng bén rễ ngay từ thời Bắc thuộc, để rồi cộng sinh và thẩm thấu trong văn hóa Việt ở tầng sâu nhất của triết lí sống từ ngàn năm nay. Ngay từ khi du nhập vào Việt Nam, những giáo lý cơ bản của đạo Phật như: “từ bi hỉ xả”, “cứu khổ cứu nạn”, “phổ độ chúng sinh”, đưa chúng sinh tới cõi cực lạc, giải thoát chúng sinh khỏi mọi nỗi khổ, đã sớm được cư dân Việt chấp nhận rộng rãi và đã nhanh chóng có được chỗ đứng quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt. Trong cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc cho con người, Phật giáo đã ngộ ra rằng, tham – sân – si là cái gốc của khổ đau, bất hạnh nên muốn gạt bỏ nó để đạt tới hạnh phúc thì người ta phải tiêu diệt ngay từ trong trứng dục vọng tham - sân - si, là gốc khởi phát của mâu thuẫn, tranh giành. Cùng với đó, Phật giáo chủ trương triết lý sống Nhân – Quả, bởi dù người ta làm gì thì cũng đều gieo nguyên nhân, để rồi chính nó sau này sẽ thành kết quả dành cho người đã gieo. Vì “thiện giả thiện lai”, “ác giả ác báo” cho nên Phật giáo khuyên con người hãy gieo nhân lành để hái quả thiện. Tư tưởng “nhân quả” của Phật giáo thấm sâu trong tư duy và hiện diện rõ nét trong hành vi của người Việt, khiến cho khi làm điều gì người ta cũng luôn chủ trương khuyến thiện trừ ác để tránh “gieo gió gặt bão”, "chạy trời không khỏi nắng", “ác giả ác báo”, không chỉ trong kiếp sống hiện tại mà còn cho cả “luân hồi” vì “đời cha ăn mặn đời con khát nước”. Tư tưởng khoan dung, nhân ái của Phật giáo đã cộng hưởng rất đồng điệu với văn hóa trọng tình của người Việt nên đã được các thế hệ người Việt tiếp thu một cách tự nhiên, tự nguyện “như nước mưa thấm vào lòng đất mẹ”, để rồi từ đó càng tô đậm thêm triết lý sống thương người, lòng nhân ái, vị tha, bao dung trong lối sống cộng đồng và ứng xử trọng tình vốn đã rất đậm nét trong truyền thống của dân tộc ta.
Như vậy, với chủ trương gạt bỏ tham – sân – si, làm lành lánh giữ, Phật giáo đòi hỏi con người trước hết phải tự hòa giải với bản thân mình. Sau khi tự hòa giải với mình, nghĩa làm dịu lắng, triệt tiêu dục vọng của mình, con người mới có thể tiến hành hòa giải với người khác. “Chiến đấu với chính mình để nhường nhịn người khác” - đó là triết lý sống mà Phật giáo mong muốn đạt tới. Như thế, Phật giáo với phương châm hòa giải từ mình, tiến đến hòa giải với người khác, rồi hòa giải với vũ trụ chính là cách tạo ra một môi trường hòa giải rộng lớn bao la để con người và vạn vật có thể sống cùng nhau một cách tốt lành.
Có thể nói, tư tưởng, giáo lý của Phật giáo ở tầng sâu nhất của triết lý sống đã góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh suy nghĩ, quan điểm nhận thức về cuộc sống cũng như hành động hằng ngày của con người, góp phần đem lại sự bình yên cho cuộc sống. Tuy nhiên, từ góc nhìn của văn hóa ứng xử với pháp luật thì Phật giáo lại cũng không tránh khỏi sự tác động tiêu cực. Bởi trong khi đề cao những giá trị sống tốt đẹp, nhân văn để tạo lập sự bình yên, hòa mục cho xã hội thì lại cũng chính tư tưởng từ bi bác ái của Phật giáo đã góp phần làm hạn chế, thui chột khả năng hành động và đấu tranh của con người khi cần phải bảo vệ công lý, lẽ phải. Với thuyết “luân hồi”, “quả báo”, Phật giáo khuyên con người tự tiết chế các hành vi của mình bằng thái độ nhường nhịn, cam chịu, thậm chí cả nhẫn nhục. Điều này lý giải vì sao khi quyền lợi của mình bị xâm hại, người Việt Nam thường không đấu tranh đến cùng mà chọn phương pháp im lặng và trông chờ nhiều vào quả báo, tin vào sự trừng phạt của lương tâm, của luật Trời hơn là luật pháp. Khi những quy tắc ứng xử này đã thành đạo lý, thành truyền thống thì người ta cũng không mấy quan tâm đến việc nó có phù hợp với pháp luật hay không.
Trở lên, chúng tôi đã nghiên cứu và chỉ ra những đặc trưng văn hóa truyền thống đã chi phối đến mặt tiêu cực trong văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, cũng xin được lưu ý rằng, tìm hiểu những tác động của văn hóa truyền thống đến văn hóa ứng xử với pháp luật hiện nay, đề tài của chúng tôi chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu những tác động tiêu cực, vì vậy những tác động tích cực của văn hóa truyền thống đến văn hóa ứng xử với pháp luật của người Việt sẽ không được đề cập đến ở đây.
Nghiên cứu mối quan hệ chi phối giữa văn hóa truyền thống với những gì đang diễn ra trong hiện tại đã cho chúng ta thấy một cái nhìn ở chiều sâu của sự kết nối có tính nền tảng giữa văn hóa với pháp luật. Chỉ ra những tác động của văn hóa truyền thống đối với những mặt tiêu cực trong văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn sâu sắc, khách quan và biện chứng hơn về mối liên hệ kết nối giữa truyền thống với hiện đại, giữa văn hóa với pháp luật. Điều đó cho thấy, không phải tất cả những gì thuộc di sản truyền thống của dân tộc đều là “nguyên liệu” tốt cho việc xây dựng một nền văn hoá pháp luật tích cực, khi mà trong truyền thống văn hóa của một dân tộc thường không phải chỉ có những phẩm chất tinh hoa, mà còn tiềm ẩn những mầm mống cản trở con đường tiến tới văn minh. Bởi vậy, mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay còn gặp nhiều khó khăn hơn là thuận lợi, khi nó được xây dựng trên nền tảng của một nền văn hóa đậm chất phương Đông (với sự tích hợp giữa lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo, Phật giáo). Truyền thống văn hóa ấy được tạo dựng trong cả nghìn năm nên không dễ dàng thay đổi trong xã hội hiện đại. Từ đây cũng cho thấy, văn hóa thường có sức mạnh hơn là pháp luật, bởi con người luôn hành động theo tập quán, theo thói quen, theo những kinh nghiệm văn hóa của mình. Nói cách khác, văn hóa có khả năng điều chỉnh hành vi của con người mạnh hơn cả pháp luật [Xem: 2]. Vậy vấn đề đặt ra hiện nay là, làm thế nào để có thể phát huy sức mạnh của văn hóa trong việc xây dựng một nền văn hóa pháp luật tích cực, lành mạnh? Đến lượt mình, pháp luật phải được xây dựng như thế nào để có thể đi vào cuộc sống một cách tự nhiên và tất yếu như là văn hóa? Câu trả lời ở đây là, pháp luật chỉ có thể trở thành văn hóa, được ứng xử như là văn hóa khi nó là hiện thân của những giá trị nhân văn chứ không phải là những công cụ cưỡng bức mà người ta chỉ nhìn thấy ở đó sự đối lập với tự do. Nói cách khác, pháp luật chỉ trở thành văn hóa khi nó có khả năng “làm cho người cầm quyền tăng thêm được tri thức về những việc họ phải quản lý và làm cho người thừa hành thêm hứng thú khi họ tuân lệnh” (Montesquieu).

CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO VĂN HÓA PHÁP LUẬT
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Thực trạng văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay cho thấy, công cuộc đổi mới đang đặt ra nhiều vấn đề, nhưng trong đó việc nâng cao vai trò, hiệu quả của pháp luật và xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật một cách tự giác và phổ biến đang đặt ra như một yêu cầu bức thiết. Trong giai đoạn hiện nay, có thể nói, văn hóa Việt Nam đang ở giai đoạn quá độ, giao thời, khủng hoảng giá trị, khi nhiều giá trị truyền thống đã tỏ ra lỗi thời, trong khi cái mới đang hình thành nên chưa định hình những chuẩn mực mới. Do đó hiện tượng xô bồ, đan xen về văn hóa, trong đó tốt – xấu lẫn lộn, tệ nạn xã hội lan tràn, khó kiểm soát, thậm chí có lúc, có nơi, cái xấu nổi trội, lấn át cái tốt, đó là một thực trạng xã hội khó tránh khỏi của mọi thời kì quá độ. Nhận thức được vấn đề có tính qui luật này là điều cần thiết để chúng ta xác định cho mình một thái độ ứng xử thích hợp, không hoang mang, nóng vội nhưng cũng không thể thờ ơ, phó mặc. Bởi vậy, để xây dựng một nền văn hóa pháp luật Việt Nam tích cực, lành mạnh trong bối cảnh hiện nay, theo chúng tôi, cần phải có những giải pháp toàn diện và đồng bộ, trong đó cần phải thực hiện đồng thời cả hai nhóm giải pháp, đó là những giải pháp mang tính chiến lược ở tầm vĩ mô để tạo lập nền tảng lâu dài và bền vững, cùng lúc phải có những giải pháp cụ thể, cấp bách để duy trì kỉ cương phép nước và thiết lập sự ổn định xã hội để tạo điều kiện cho sự đổi mới và phát triển.
3.1. Các giải pháp nền tảng có tính chiến lược
Trong điều kiện của nước ta, công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền diễn ra trong bối cảnh văn hóa truyền thống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo với nhiều yếu tố không thuận lợi. Bởi vậy, để xây dựng ý thức và hành vi, lối sống thượng tôn pháp luật trong xã hội Việt Nam hiện nay, theo chúng tôi, phải bắt đầu từ sự thay đổi nền tảng văn hóa mà công việc trước tiên là phải thanh lọc để loại bỏ những đặc trưng văn hóa tiểu nông với những hệ lụy tiêu cực của nó, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại để bổ sung cho những thiếu hụt của văn hóa truyền thống.
3.1.1. Thanh lọc, tẩy trừ những tiêu cực, lạc hậu của văn hóa truyền thống
3.1.1.1. Thay đổi tư duy tiểu nông tùy tiện, chủ quan, cảm tính
Lối sống tiểu nông chỉ quen ứng phó với những “tình thế” cụ thể, “tùy cơ ứng biến”, “nước đến chân mới nhảy” nên đã hình thành trong căn tính người Việt kiểu tư duy manh mún, nhỏ lẻ, thiếu tính logic và hệ thống, không có tính chiến lược và tầm nhìn xa, cùng với đó là thói quen ứng xử tùy tiện, vô nguyên tắc, vô kỉ luật. Mặt khác, do nhận thức và tư duy của người sản xuất nhỏ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, nặng về cảm tính, chủ quan nên hạn chế về năng lực tư duy lí luận; cách nhận thức và lối suy nghĩ do đó thường giản đơn, đại khái, phiến diện, thiếu tính khái quát, toàn diện và khoa học, không nhìn ra bản chất, qui luật, nguyên nhân, nguồn gốc bên trong của sự vật, hiện tượng. Hạn chế này đang hiện diện rõ nét trong cách thức điều hành và hoạch định chính sách của các nhà quản lí của chúng ta hiện nay, biểu hiện qua sự tùy tiện, chủ quan, cảm tính, sự thiếu đồng bộ và nhất quán trong việc soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật cũng như việc tổ chức và thực thi pháp luật. Đây đang là những hạn chế rất lớn, gây nên nhiều tác động tiêu cực đối với đời sống xã hội, làm suy giảm niềm tin vào tính hiệu lực của pháp luật. Bởi vậy, muốn xây dựng một xã hội thượng tôn pháp luật thì việc thay đổi lối tư duy tiểu nông tùy tiện, chủ quan, cảm tính phải được quán triệt trước hết với đối tượng là các nhà quản lý, điều hành các chủ trương, chính sách xã hội ở tầm vĩ mô.
3.1.1.2. Thay đổi thói quen ứng xử của văn hóa làng
Là hệ quả của văn hóa làng với tính tự trị, thói quen ứng xử “phép vua thua lệ làng” và những hệ quả của nó hiện đang để lại những di chứng khá nặng nề trong xã hội ta hiện nay, mà ảnh hưởng trực tiếp nhất là ở phương diện quản lý xã hội từ vĩ mô đến vi mô. Nếu ngày xưa người dân vẫn quen coi trọng “lệ làng” hơn “phép nước” thì ngày nay thói quen ứng xử ấy vẫn còn di căn trong thực tế, đó là tình trạng các chủ trương, chính sách từ trên xuống bị tiếp nhận sai lệch, hoặc được vận dụng một cách tùy tiện, thiếu đồng bộ và nhất quán ở các địa phương, bộ, ngành, vì lợi ích nhóm – một hiện tượng đang diễn ra khá phổ biến hiện nay. Thực chất đây là biến thái của thói quen trọng lệ hơn luật, coi thường, thậm chí vi phạm pháp luật mà ta vẫn quen gọi là hiện tượng “trên bảo dưới không nghe”, “là lệ làng thời hiện đại”, mà hậu quả là gây nên nhiều tác động tiêu cực đối với đời sống xã hội, làm suy giảm niềm tin vào sức mạnh và tính nghiêm minh của pháp luật, và cùng với đó là sự gia tăng thói quen hành xử không thượng tôn pháp luật.
Văn hóa làng với lối sống cục bộ địa phương, khép kín đã hình thành ở con người thói quen chỉ quan tâm tới những gì liên quan trực tiếp đến lợi ích thiển cận của mình kiểu “ăn cây nào, rào cây ấy”; “đèn nhà ai nấy rạng”; “của mình thì giữ bo bo, của người thì để cho bò nó ăn”. Đây là nguyên nhân của thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm với lợi ích chung, chỉ lo vun vén cá nhân, phe nhóm, cục bộ một cách thực dụng, thiển cận.
Ở góc độ quản lý xã hội, việc khắc phục, loại bỏ tư tưởng cục bộ địa phương, trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng đồng nghĩa với việc thay đổi kiểu tư duy quản lý “gia đình chủ nghĩa”, “đóng cửa bảo nhau”, “nặng tình nhẹ lý”. Khi quan hệ công việc bị chi phối bởi tình cảm và các mối quan hệ thân quen, thì hệ lụy của nó mà ai cũng dễ dàng nhận thấy, đó là tệ nạn “con ông cháu cha”, nạn “ô dù”, “chủ nghĩa thân quen”, sự kéo bè kết cánh dựa trên mối quan hệ huyết thống, bà con, đồng hương… để tham ô, hối lộ, bao che, nhũng nhiễu… khiến cho pháp luật nhiều khi bị vô hiệu hóa. Tuy không tồn tại một cách chính thống và công khai nhưng ai cũng có thể thấy căn bệnh này đã và đang là một vấn nạn xã hội, đang hàng ngày âm thầm, âm ỉ tác động tiêu cực, làm suy giảm sức mạnh của hệ thống công quyền, gây nên nhiều bức xúc trong xã hội [12, 28]. Đây thực sự là những rào cản lớn mà chúng ta không thể không khắc phục, xoá bỏ khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi vậy, lời cảnh báo của V.I.Lênin vẫn còn nguyên ý nghĩa khi ông nói rằng “những thói quen, nhất là thói quen lạc hậu có một sức ỳ ghê gớm cần phải được chúng ta ghi nhớ và giải quyết thoả đáng”. Bởi vậy, khắc phục được những tệ nạn này cũng chính là minh bạch hóa các mối quan hệ công quyền, góp phần nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, làm gia tăng sức mạnh của bộ máy công quyền, tạo điều kiện để pháp luật được thực thi một cách công bằng, minh bạch.
Tóm lại, mặt trái của văn hóa làng và những căn tính tiểu nông đang là một rào cản rất lớn đối với đất nước trong quá trình hội nhập và phát triển, khi nó đang hiện hữu như là một phần văn hóa sống trong tiềm thức mỗi người Việt Nam, từ nông thôn đến thành thị, từ nông dân đến trí thức, từ thường dân đến quan chức, từ công dân đến cơ quan công quyền.
Nếu trong nền sản xuất nhỏ tự cung tự cấp, tư tưởng này hình thành như là một sự thích nghi tối ưu và tất yếu thì ngày nay, khi đất nước bước vào quá trình hội nhập, chuyển sang một xã hội đô thị và công nghiệp thì những lối sống, thói quen tư duy ấy của truyền thống đã không còn thích hợp. Không những không còn thích hợp, nó còn như những tảng đá lớn đang cản đường đi lên của dân tộc và là nguyên nhân của những hành vi tiêu cực.
Tuy nhiên, việc tẩy trừ, đoạn tuyệt với những tàn dư dai dẳng của căn tính tiểu nông là cả một cuộc hành trình dài khi nó là hệ quả song hành của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bởi chỉ khi phương thức sản xuất tiểu nông – cơ sở sản sinh ra nó không còn tồn tại, thay thế vào đó là phương thức sản xuất công nghiệp với một nền tảng kinh tế - xã hội văn minh, hiện đại thì mới có thể nói đến một sự đổi thay toàn diện, sâu sắc và triệt để về văn hóa.
Nhìn ra thế giới, có thể thấy, những đổi thay kì diệu của Nhật Bản cần được xem là bài học kinh nghiệm đáng để chúng ta “nhìn người mà ngẫm đến ta”. Nhật Bản như những gì chúng ta thấy hiện nay có thể xem là mẫu mực của một xã hội văn minh, nề nếp, trật tự, kỉ cương, mặc dù xuất phát điểm của họ cũng là một quốc gia phương Đông, với nền tảng truyền thống là xã hội nông nghiệp có nhiều điểm khá tương đồng với Việt Nam. Trước khi trở thành một nước công nghiệp hàng đầu thế giới, Nhật Bản là một nước nông nghiệp với tỉ lệ nông dân trong tổng dân số tương đương với Việt Nam. Trước thời Minh Trị Duy Tân (1868-1912), tới 80% dân số Nhật Bản làm nghề nông và lúa là nông sản chính. Bởi vậy, từ phương thức sản xuất nông nghiệp cũng đã sản sinh ra nền văn hóa Nhật Bản với nhiều thói quen, tập tục và những tệ nạn cũng như các nước kém phát triển khác. Người Nhật thời đó cũng có quan niệm coi trọng của riêng hơn của chung. Quan chức, nhân viên nhà nước thời đó cũng hách dịch, cho rằng mình thuộc tầng lớp tinh túy mà ban phát ân huệ cho dân chúng. Ngược thời gian về trước nữa, trong các cuốn sách như Phúc ông tự truyện hay Khuyến học của Fukuzawa Yukichi cũng phản ánh đầy những thói hư tật xấu của người Nhật, trong đó dân chúng ai cũng lo vun vén lợi ích riêng, chính phủ thì tàn bạo, quan chức thì tham lam v.v…
Tuy nhiên, cuộc cách mạng Minh Trị với việc tiếp thu văn hoá và kỹ thuật của Tây Âu, với những cải cách sâu sắc, toàn diện và triệt để, bắt đầu từ nền tảng kinh tế, từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp, kéo theo đó là những cải cách về chính trị, giáo dục, văn hóa, qua hơn nửa thế kỉ đã làm thay đổi từ lối sống đến nhân cách người Nhật. Chính cuộc cách mạng triệt để bắt đầu từ những nền tảng kinh tế - xã hội ấy là nguyên nhân khiến nước Nhật trở thành một cường quốc kinh tế như hiện nay. Thiết nghĩ, bài học của nước Nhật rất cần để chúng ta suy ngẫm và có những chiến lược phát triển phù hợp.
3.1.2. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để bổ sung, bù đắp những thiếu hụt của văn hóa truyền thống
Cùng với việc thanh lọc, tẩy trừ những tiêu cực, lạc hậu của văn hóa truyền thống thì việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại để bổ sung, bù đắp những thiếu hụt của văn hóa truyền thống cũng là một trong những giải pháp mang tính chiến lược để hướng tới mục tiêu xây dựng một nền văn hóa pháp luật Việt Nam tích cực, lành mạnh. Vì rằng, mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang thực hiện là sự vận dụng học thuyết về nhà nước pháp quyền phương Tây - vốn là sản phẩm của xã hội công nghiệp - vào một xã hội phương Đông nông nghiệp, do đó, sự không tương thích về văn hóa khiến chúng ta phải điều chỉnh, bổ sung để hội nhập và phát triển là điều hiển nhiên.
Theo chúng tôi, từ góc nhìn văn hóa pháp luật, những thiếu hụt của nền tảng văn hóa truyền thống mà chúng ta cần bổ sung, bù đắp đó là: 3.1.2.1. Tạo điều kiện cho sự phát triển ý thức về quyền cá nhân Trong những đặc trưng của văn hóa nông nghiệp, tính gắn kết cộng đồng cao là một truyền thống tốt đẹp đã từng làm nên sức mạnh to lớn để dân tộc ta vượt qua những thử thách, cam go. Nhưng mặt trái của nó là sự phủ nhận vai trò cá nhân mà hệ quả của nó là làm cho con người trở nên thụ động trong các quan hệ, không dám khẳng định bản lĩnh và nhân cách cá nhân, không dám nhân danh cá nhân để đòi hỏi những quyền lợi chính đáng cho mình. Thêm vào đó, Nho giáo cũng góp phần tích cực trong việc phủ nhận, triệt tiêu quyền cá nhân. Đó là nguyên do giải thích vì sao người Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự tự giác và chủ động trong việc sử dụng các quyền cá nhân của mình trong ứng xử với các quan hệ xã hội, mặc dù đã được hiến pháp và pháp luật qui định. Muốn xây dựng một nền văn hóa pháp luật theo tiêu chí của nhà nước pháp quyền thì một vấn đề có tính nền tảng là phải thay đổi quan niệm truyền thống về vai trò cá nhân, theo đó, nhà nước phải tạo những điều kiện thuận lợi để phát triển ý thức cá nhân, bởi nhà nước pháp quyền chỉ có thể hình thành và tồn tại với đúng nghĩa của nó trên nền tảng văn hóa đề cao tính cá nhân. Để tạo điều kiện phát triển ý thức về quyền cá nhân, trước hết, các cơ quan lập pháp và hành pháp phải coi trọng vấn đề xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật vào việc bảo vệ quyền con người, quyền cá nhân đồng thời đảm bảo cho việc thực thi như là một trách nhiệm phải thực hiện chứ không phải ban phát. Đến lượt mình, mỗi cá nhân cũng phải có ý thức và chủ động thực hiện các quyền của mình mà pháp luật đã thừa nhận. Trong thực tế hiện nay, xét trên cả hai phương diện, nhà nước và công dân, đây đang là một điểm yếu, cũng là một sự thiếu hụt do truyền thống để lại mà chúng ta cần phải bù đắp kịp thời.
3.1.2.2. Xây dựng ý thức và thói quen sử dụng pháp luật trong các hành vi dân sự
Trong văn hóa truyền thống Việt Nam, từ sự cộng hưởng một cách hòa điệu giữa văn hóa nông nghiệp (lối sống cộng đồng và ứng xử trọng tình cả nể, bao che; lối sống tự trị khép kín trọng lệ hơn luật) với tư tưởng Nho giáo (phủ nhận quyền cá nhân; đề cao đức trị hơn pháp trị; coi pháp luật là công cụ cai trị; khuyến khích vô tụng) và Phật giáo (đề cao lòng nhân ái bao dung, sự nhẫn nhục, cam chịu, dĩ hòa vi quí) khiến cho người dân không tin tưởng vào pháp luật, không coi pháp luật là cách giải quyết được ưu tiên. Nhu cầu sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho mình vì vậy không trở thành một thói quen ứng xử phổ biến của người dân từ trong nhận thức cho đến hành vi. Vai trò của pháp luật trong xã hội dân sự vì vậy rất mờ nhạt, lâu dần thành truyền thống coi thường pháp luật, thờ ơ với pháp luật, né tránh pháp luật. Đó cũng là một lý do giải thích vì sao người Việt cho đến ngày nay vẫn chưa có thói quen tìm đến pháp luật khi xảy ra các tranh chấp dân sự như một hành vi ứng xử tất yếu và phổ biến ở các quốc gia phát triển. Nói cách khác,trong tâm thức người dân hiện nay, pháp luật vẫn không phải là cách giải quyết được ưu tiên. Lối ứng xử ấy đối lập hoàn toàn với tinh thần "thượng tôn pháp luật", một đòi hỏi tất yếu của xã hội hiện đại, của nhà nước pháp quyền. Đây thực sự đang là một thách đố gay gắt khi đất nước đang bước vào tiến trình hội nhập quốc tế với các quan hệ giao lưu được mở rộng, trong đó tinh thần "thượng tôn pháp luật" là điểm tựa của việc thực hiện những cam kết quốc tế. Việc khắc phục những hạn chế của truyền thống và xây dựng ý thức, hành vi tôn trọng pháp luật cũng như tính chủ động sử dụng pháp luật với tính cách là yếu tố then chốt của văn hoá pháp luật vì vậy có vai trò cực kỳ quan trọng. Và đòi hỏi này lại càng quan trọng và bức thiết hơn khi đây là một trong những điểm yếu lớn nhất có thể dễ dàng nhận thấy trong thực tiễn pháp lý ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, muốn xây dựng thói quen sử dụng pháp luật phổ biến trong xã hội thì phải tạo lập cho người dân niềm tin vào tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật, coi pháp luật là công cụ để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho mình. Nhưng muốn người dân có niềm tin đối với pháp luật thì cần phải có những giải pháp cụ thể và cấp bách để xây dựng và hoàn thiện hệ thống thiết chế thực thi pháp luật vốn đang bộc lộ nhiều yếu kém hiện nay.
3.2. Các giải pháp cụ thể và cấp bách
Để nâng cao văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay, cùng với việc cần đến những giải pháp có tính nền tảng và một lộ trình thực hiện có tính chiến lược, thì hiện trạng của văn hóa pháp luật hiện nay đang đòi hỏi phải có những giải pháp cụ thể và cấp bách mới mong thiết lập lại trật tự xã hội và kỉ cương phép nước.
3.2.1. Xử lý nghiêm minh, triệt để và kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật
Có thể nói, để pháp luật chỉ thực sự là một công cụ có hiệu lực thì cần phải đòi hỏi sự kết hợp nhiều yếu tố, trong đó, luật pháp phải chặt chẽ, hình phạt đủ nặng để có sức răn đe, việc thi hành luật pháp đủ nghiêm minh, quan chức các cấp đủ gương mẫu, bộ máy nhà nước đủ trong sạch. Tất cả những yếu tố này đều rất quan trọng và cần thiết để thiết lập lại trật tự công lí trong xã hội ta hiện nay. Tuy nhiên, trong số đó, giải pháp cụ thể và cấp bách nhất hiện nay, theo chúng tôi, trước hết cần phải có chế tài đủ mạnh để xử phạt nghiêm minh, triệt để và kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là những hành vi vi phạm của quan chức, công chức, điều mà lâu nay dư luận đã và đang rất bức xúc. Có như thế lấy lại niềm tin cho công chúng đối với sự công bằng và nghiêm minh của pháp luật, mới làm gương cho xã hội noi theo.
Ngay từ thời cổ đại ở phương Đông cách đây hơn hai ngàn năm, Hàn Phi đã từng khẳng định sứ mạng, quyền uy và sức mạnh của pháp luật: “Pháp luật không hùa theo người sang. Sợi dây dọi không uốn mình theo cây gỗ cong. Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu. Cho nên điều sửa chữa được sự sai lầm của người trên, trị được cái gian của kẻ dưới, trừ được loạn, sửa được điều sai, thống nhất đường lối của dân không gì bằng pháp luật” [dẫn từ: 13]. Câu nói ấy của cổ nhân cách đây đã hơn hai mươi thế kỉ, vậy mà đến hôm nay vẫn còn là chân lý, và không những thế, đang là một bài học nóng hổi tính thời sự đối với chúng ta. “Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu”, câu nói ấy không chỉ thể hiện sức mạnh, quyền uy của pháp luật mà cũng đồng thời phản ánh ý chí và khát vọng muôn đời của người dân dưới bất cứ thể chế chính trị nào. Bởi vây, V.I Lênin cũng từng khuyến cáo: “Ở giờ phút chiến đấu quyết liệt, kẻ nào chùn bước trước tính chất bất di bất dịch của pháp luật thì người đó là kẻ cách mạng tồi” [80, 625]. Mong sao ngày càng bớt đi những “người cách mạng tồi” như thế!
Thực tiễn cho thấy, chỉ ở những quốc gia mà sự vận hành guồng máy xã hội dựa vào tính nghiêm minh của luật pháp, ở đấy xã hội mới ổn định và phát triển, kỉ cương phép nước mới được thiết lập, công lý mới được thực thi, và chỉ khi đó con người mới đạt đến trạng thái phát triển thực sự. Điều đó nói lên vai trò đặc biệt quan trọng của pháp luật trong việc tạo ra một môi trường pháp lý nghiêm minh, làm điểm tựa căn bản cho sự vận hành guồng máy xã hội là quan trọng và bức thiết đến nhường nào. Bởi vậy, câu khẩu hiệu “Sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” sẽ mãi chỉ là khẩu hiệu suông nếu như trước hết, các hành vi vi phạm không được xử lý một cách kịp thời, triệt để và nghiêm minh.
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và các thiết chế thực thi pháp luật
Những năm gần đây, do yêu cầu của việc quản lý xã hội bằng pháp luật, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Tuy nhiên, thực trạng chất lượng của hệ thống văn bản pháp luật và các thiết chế thực thi pháp luật còn nhiều yếu kém, bất cập. Đó là thực trạng văn bản pháp luật vi phạm pháp luật quá nhiều, văn bản chồng chéo, mâu thuẫn, không rõ nghĩa, hay thay đổi, không phù hợp với thực tiễn, không có tính khả thi… gây khó khăn cho cả hai phía: người dân với tư cách là đối tượng chấp hành và các cơ quan công quyền với tư cách là chủ thể thực thi pháp luật.Cùng với đó, chất lượng nguồn nhân lực trong các cơ quan thực thi pháp luật cũng còn nhiều bất ổn, do một bộ phận cán bộ công chức yếu về năng lực chuyên môn, tha hóa về phẩm chất đạo đức và thiếu tinh thần trách nhiệm, dẫn đến việc xử án còn nhiều oan sai, tồn đọng, gây mất niềm tin của xã hội vào sự công bằng và tính nghiêm minh của pháp luật. Bởi vậy trong bề bộn những công việc cấp bách phải làm hiện nay, theo chúng tôi, việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng hệ thống văn bản pháp luật, cùng với đó là việc giáo dục, nâng cao năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ những người thực thi pháp luật nói riêng và bộ máy công quyền nói chung là những việc làm thiết thực trước mắt để thiết lập lại kỉ cương phép nước, nâng cao năng lực và hiệu quả của các thiết chế thực thi pháp luật.
Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, khi mà đất nước ta đã là thành viên của những tổ chức quốc tế thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng một nền tư pháp có chất lượng, trong sạch và hiệu quả cũng như cải cách nền hành chính quốc gia là điều kiện thiết yếu để chúng ta tối đa hoá các lợi ích của quá trình hội nhập. Bởi trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, việc giải quyết tranh chấp pháp lý không còn giới hạn trong phạm vi quốc gia mà bao gồm cả yếu tố nước ngoài, hơn lúc nào hết, những người cầm cân nảy mực cần phải có những kiến thức luật pháp sâu rộng để đáp ứng được những yêu cầu đó. Lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế đã được định hướng từ hơn 20 năm nay, tham gia sân chơi toàn cầu không có cách nào khác chúng ta phải ứng xử theo thông lệ đó. Tất cả mọi hành vi đều được xem xét dưới các chế tài pháp lý, không chỉ của Việt Nam mà còn là của thế giới. Công cuộc hội nhập chỉ thành công khi chúng ta được trang bị đầy đủ kiến thức về luật chơi.
3.
2.3. Đào tạo nguồn nhân lực ngành Luật vừa “hồng” vừa “chuyên”
Về phương diện lý luận, mục tiêu của việc xây dựng nền văn hóa nói chung là nhằm tạo ra hai nhân tố: môi trường văn hoá và con người văn hoá. Hai nhân tố này tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó nhân tố con người là quyết định, bởi lẽ hiển nhiên là, có con người văn hóa thì mới có môi trường văn hóa. Do đó, để xây dựng nền văn hoá pháp luật Việt Nam tích cực và lành mạnh, một trong những việc quan trọng cần làm, và có thể làm ngay, theo chúng tôi đó là phải quan tâm để có những giải pháp cụ thể để xây dựng nguồn lực con người vừa “hồng” vừa “chuyên” cho ngành luật.
Thực tế những năm vừa qua cho thấy, đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi pháp luật không những còn thiếu và yếu về năng lực, thiếu ý thức trách nhiệm, mà còn thiếu cả đạo đức nghề nghiệp. Thực trạng về việc cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xử lý không nghiêm những trường hợp vi phạm, thậm chí chính bản thân họ cũng vi phạm pháp luật đang diễn ra ngày càng phổ biến, làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin của người dân đối với những người thực thi công lý nói riêng và đối với pháp luật nói chung. Người dân hiểu về pháp luật, có thái độ tôn trọng pháp luật hay không trước hết thông qua sự nhìn nhận, đánh giá về hoạt động của các cơ quan áp dụng pháp luật. Ở đây, văn hóa ứng xử với pháp luật của các cơ quan pháp luật có vai trò “hướng đạo” rất quan trọng. Do đó, việc nâng cao chất lượng của các cơ quan pháp luật cũng như việc xây dựng đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật có chất lượng, “vừa hồng vừa chuyên” đang là một đòi hỏi cấp bách hiện nay. Bởi vậy, theo chúng tôi, trong chương trình đào tạo chuyên ngành luật hiện nay, cùng với việc chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo tri thức chuyên môn, cần đưa vào giảng dạy chuyên đề về văn hóa pháp luật cho sinh viên, để sau này khi hành nghề, họ phải là những tấm gương mẫu mực về hành vi ứng xử với pháp luật. Ở đây chúng tôi cùng quan điểm với PGS.TS Nguyên Ngọc Điện khi ông cho rằng: “Cần xây dựng đội ngũ người làm luật như thế nào để, khi tiếp cận với các điều luật, người ta không phải thấy loáng thoáng đằng sau đó bóng dáng của những phần tử cơ hội, mang tính cách nhỏ nhen, làm luật theo cung cách của người đi giăng bẫy để triệt hạ đồng loại. Thay vào đó, phải là hình ảnh những con người thanh lịch, thông thái, đầy quyền uy nhưng cũng rất bao dung, rộng lượng, đảm nhận vai trò dẫn đường cho toàn xã hội trong công cuộc kiến tạo trật tự và công bằng” (Văn hóa ứng xử của người làm luật).
3.2.4. Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân
Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh vẫn chưa thể đem lại hiệu quả cao nếu những quy định của nó không được mọi người biến thành hành động trong thực tế. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: việc công bố đạo luật chưa phải là đã xong, mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt, bởi việc giáo dục pháp luật là một trong những công đoạn hết sức quan trọng. Nó không chỉ giúp nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, mà còn tạo ra khả năng hình thành những nhu cầu, tình cảm, những chuẩn mực mới, đồng thời, góp phần củng cố ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đạo đức, ngăn chặn các biểu hiện xâm phạm lợi ích chính đáng của người khác, khuyến khích những hành vi hợp pháp và hợp đạo lý.
Trong điều kiện thực tế của nước ta hiện nay, việc giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật càng có tầm quan trọng đặc biệt trong việc nâng cao trình độ văn hoá pháp luật và năng lực pháp lý thực tiễn của công dân. Hiện nay ở nước ta, chính sách của Nhà nước về phát triển thông tin và phổ biến, giáo dục pháp luật chưa đồng bộ và nhất quán. Thông tin pháp luật kém cập nhật, cát cứ, chưa tập trung. Các văn bản quy phạm pháp luật chưa được đăng tải đầy đủ trên công báo và các phương tiện thông tin đại chúng trong khi văn bản pháp luật của chúng ta lại thay đổi thường xuyên. Việc tuyên truyền phổ biến pháp luật còn mang nặng tính hình thức nên pháp luật ít đến với người dân và khó đi vào thực tiễn.
Bởi vậy, để nâng cao hiểu biết về pháp luật cho người dân, cần tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân - những người chịu tác động của một quyết sách sắp ban hành cần có cơ hội để đóng góp ý kiến hoặc tham gia vào quá trình ra quyết định, đó là giải pháp hữu hiệu nhất để người dân hiểu biết về pháp luật và tự giác chấp hành pháp luật. Việc tăng cường tính công khai và dân chủ trong quá trình xây dựng pháp luật là một trong những giải pháp cần thiết để không những đưa “pháp luật gần hơn với cuộc đời” mà còn góp phần nâng cao sự hiểu biết của người dân về pháp luật, đó là điều kiện để người dân tự giác tuân thủ pháp luật.

KẾT LUẬN

1. Trong tiến trình hội nhập và phát triển, Việt Nam đang nỗ lực để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội nhằm hiện đại hóa đất nước, trong đó xây dựng nhà nước pháp quyền được xác định là một mục tiêu quan trọng. Nhưng một thực trạng đáng báo động là văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay đang bộc lộ nhiều tiêu cực, biểu hiện từ các hành vi ứng xử với pháp luật của cá nhân trong đời sống hàng ngày cho đến trình độ vận dụng công cụ pháp luật của Nhà nước trong quản lí xã hội cũng như việc thực thi pháp luật trong thực tế… Hệ quả là, thói quen không tuân thủ pháp luật, coi thường pháp luật, lách luật, lối ứng xử tùy tiện với pháp luật… đang tồn tại và biểu hiện rất phổ biến, không chỉ với dân thường mà ngay cả đối với những cán bộ, công chức trong các cơ quan công quyền; thậm chí, cả với những người đang nắm giữ cán cân công lý của xã hội. Theo đó là sự gia tăng đến mức báo động các loại tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Những biểu hiện xuống cấp và suy thoái đạo đức, đặc biệt là “ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền” đang là nỗi bất bình của toàn xã hội. Thực trạng ấy đang từng ngày làm ô nhiễm bầu không khí tinh thần của xã hội, làm suy giảm đáng kể lòng tin của người dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật, dẫn đến coi thường kỉ cương phép nước. Đó cũng chính là những biểu hiện của một đời sống văn hóa pháp luật không lành mạnh, một thái độ ứng xử văn hóa không thượng tôn pháp luật. 2. Thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay có nguyên nhân trực tiếp là do hệ thống các thiết chế pháp luật chưa hoàn thiện, còn nhiều hạn chế, bất cập, việc thực thi pháp luật chưa được thực hiện nghiêm minh nên người dân không tin tưởng vào pháp luật, né tránh pháp luật, tìm cách lách luật hoặc thờ ơ với pháp luật. Tuy nhiên, đằng sau những nguyên nhân trực tiếp ấy là sự chi phối của những nguyên nhân sâu xa từ nền tảng văn hóa truyền thống, đó là tư duy tiểu nông tùy tiện, chủ quan, cảm tính, là lối ứng xử mềm dẻo, linh hoạt, vô nguyên tắc; đó là lối sống trọng lệ hơn luật, trọng tình hơn lý, dĩ hòa vi quí, trọng đức trị hơn pháp trị… Tư tưởng, giáo lí của Nho giáo, Phật giáo hòa hợp đồng điệu với nền tảng văn hóa nông nghiệp lúa nước tiểu nông đã hình thành những tư tưởng ăn sâu, quện chặt trong tư duy và cách ứng xử của người Việt truyền thống, đó là lối hành xử không theo chuẩn mực pháp lý, là thói quen không thượng tôn pháp luật. Truyền thống này vẫn còn di căn rất rõ nét trong xã hội hiện đại, là nguyên nhân sâu xa chi phối cách hành xử của xã hội, từ người dân cho đến các cơ quan công quyền. Đó là những lực cản không nhỏ đối với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay ở nước ta nói riêng cũng như công cuộc hiện đại hóa đất nước nói chung.
3. Để xây dựng một nền văn hóa pháp luật Việt Nam tích cực, lành mạnh, làm nền tảng cho việc thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, theo chúng tôi, cần phải thực hiện đồng thời hai nhóm giải pháp: những giải pháp cụ thể, cấp bách và những giải pháp có tính chiến lược lâu dài.
3.1. Với nhóm giải pháp cụ thể, cấp bách, điều cần thiết trước hết hiện nay là phải có hình thức xử lý nghiêm minh, triệt để và kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật; cùng với đó là việc củng cố năng lực của hệ thống pháp luật và các thiết chế thực thi pháp luật để tạo lập niềm tin của người dân đối với pháp luật.
3.2. Cùng với những giải pháp cụ thể, cấp bách, cần phải có những giải pháp mang tính chiến lược để tạo lập nền tảng lâu dài và bền vững, đó là: một mặt phải thanh lọc, tẩy trừ những đặc trưng văn hóa truyền thống đã trở thành tiêu cực, lạc hậu, cản trở sự phát triển; mặt khác, phải biết tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại để bù lấp những thiếu hụt của văn hóa truyền thống. Đó cũng chính là thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, và cũng là điều kiện nền tảng để xây dựng và phát triển nền văn hóa pháp luật Việt Nam ngang tầm thế giới./.

I. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Hội Nhà văn, 2000 (tái bản)
2. Nguyễn Trần Bạt, Ảnh hưởng của văn hóa đối với pháp luật (Nguồn: chungta.com)
3. Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, NXB TP Hồ Chí Minh, 2004.
4. Du Vinh Căn, Tổng quan tư tưởng pháp luật Nho gia, (bản dịch của Viện Khoa học Xã hội), Học viện Hành chính Quốc gia, 2002.
5. Nguyễn Quốc Chấn, Huỳnh Khái Vinh, Văn hóa các dân tộc Việt Nam thống nhất mà đa dạng, NXB Chính trị Quốc gia, 2002
6. Khang Thức Chiêu, Cải cách thể chế văn hóa, NXB Chính trị Quốc gia, 1996
7. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập II, NXB KHXH
8. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ biên), Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, NXB Chính trị Quốc gia, 2002.
9. Chuyên đề Văn hóa tư pháp, Thông tin khoa học Pháp lý, 7/2001,
10. Phan Đại Doãn, Mấy vấn đề văn hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia, 2004
11. Lê Đăng Doanh, Tính truyền thống và yêu cầu đổi mới trong thiên niên kỷ mới (in trong: Một góc nhìn của trí thức), NXB Trẻ, 2001
12. Nguyễn Đăng Dung, Một xã hội làng xã, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 11/ 2003.
13. Nguyễn Đăng Dung, Bùi Ngọc Sơn, Lệ làng xưa và “lệ làng” nay, Tạp chí Cộng sản, số 28/2003.
14. Phạm Đức Dương, Từ văn hóa đến văn hóa học, NXB Văn hóa, 2002
15. Đại học Luật Hà Nội, Văn hóa pháp luật và phát triển văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay, (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường), 2001.
16. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, 2007
17. Đạo đức nghề nghiệp luật sư, (Kỷ yếu hội thảo), NXB Chính trị Quốc gia, 1998
18. Bùi Xuân Đính, 101 truyện pháp luật thời xưa, NXB Thanh niên, 1999
19. Bùi Xuân Đính, Nhà nước và pháp luật thời phong kiến Việt Nam, NXB Tư pháp, 2005
20.Trần Ngọc Đường, Văn hóa pháp lý với sự nghiệp đổi mới ở nước ta, Tạp chí Luật học, 2/2003
21. E.B.Tylor, Văn hóa nguyên thủy, NXB Văn hóa Thông tin, 2000
22. Francis Fukuyama, Giá trị châu Á sau cuộc khủng hoảng châu Á, (in trong: Dân chủ, kinh tế thị trường và phát triển), NXB Thế giới, HN, 2002.
23. Vũ Minh Giang, Xây dựng lối sống theo pháp luật nhìn từ góc độ lịch sử truyền thống, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/1993
24. Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, NXB TP HCM, 1993
25. Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên), Về phát triển văn hóa và xây dựng con người thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị Quốc gia.
26. Nguyễn Duy Hinh, Văn minh Đại Việt, NXB Văn hóa Thông tin, 2005
27. Lê Huy Hoà – Hoàng Đức Nhuận (tuyển chọn và giới thiệu), Văn hoá Việt Nam truyền thống và hiện đại. NXB Văn hoá, Hà Nội, 2000
28. Học viện CTQG HCM - Khoa văn hóa XHCN, Văn hóa dân tộc trong quá trình mở cửa ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, 1996
29.Nguyễn Văn Huyên, Hội nhập văn hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc, trong sách “Việt Nam trong thế kỷ XX”, NXB Chính trị Quốc gia, 2002

30. Cao Xuân Huy, Tư tưởng phương Ðông - gợi những điểm nhìn tham chiếu, NXB Văn học, 1995.
31. Trần Đình Hượu, Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, NXB Văn hóa, 1996.
32. Trần Văn Khê, Suy tư về vấn đề “phát triển văn hóa”, in trong sách Việt Nam trong thế kỷ XX, 2002
33. Trần Ngọc Khuê, Xu hướng biến đổi tâm lý xã hội trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, 1998
34. Trần Trọng Kim, Nho giáo, NXB. Văn học, Hà Nội, 2003.
35. Nguyễn Duy Lãm (Chủ biên), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, NXB Giáo dục, 1996
36. Đỗ Long, Tâm lý học dân tộc - Nghiên cứu và thành tựu, NXB Khoa học Xã hội, 2001
37. Lê Vương Long, Văn hóa pháp lý Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 2006
38. Vũ Văn Mẫu, Cổ Luật Việt Nam lược khảo, Quyển 1, Sài Gòn, (Knxb), 1970
39. Hồ Chí Minh toàn tập (tập III), NXB Chính trị Quốc gia, 1995
40. Montesquieu, Tinh thần pháp luật (người dịch: Hoàng Thanh Đạm), NXB Giáo Dục, 1996
41. Phan Ngọc, Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, NXB Văn hóa Thông tin, 1994
42. Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, 1998
43. Phan Ngọc, Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, 2000
44. Phạm Duy Nghĩa, Nơi doanh nhân tìm đến công lý, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 3/2003
45. Phạm Duy Nghĩa, Gia tài 60 năm luật học (in trong Bay cùng đàn sếu), NXB Trẻ, 2005
46. Phạm Duy Nghĩa, Góp phần tìm hiểu văn hóa pháp luật, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật, số 24- 2008
47. Nguyễn Thế Nghĩa, Mấy vấn đề về văn hóa và phát triển, (trong sách Văn hóa và phát triển ở thành phố Hồ Chí Minh), NXB Khoa học Xã hội, 2004
48. Nhiều tác giả, Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam, NXB Văn hóa Dân tộc, 1999
49. Nguyễn Hồng Phong, Văn hóa chính trị Việt Nam - Truyền thống và hiện đại, NXB Văn hóa Thông tin, 1998
50. Lương Hồng Quang, Dân trí và sự hình thành văn hóa cá nhân, NXB Văn hóa Thông tin, 1999
51. Hồ Sĩ Quý, Tìm hiểu về văn hóa và văn minh, NXB Chính trị Quốc gia, 1999
52. Hồ Sĩ Quý, Về giá trị và giá trị châu Á, NXB Chính trị Quốc gia, 2005
53. Samuel Huntington, Sự va chạm của nền văn minh, NXB Lao động, 2005
54. Bùi Ngọc Sơn, Xây dựng nhà nước pháp quyền trong bối cảnh văn hóa Việt Nam, NXB Tư pháp, 2004
55. Thanh Lê, Văn hóa với đời sống xã hội, NXB Khoa học Xã hội, 1998
56. Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa, Mấy vấn đề về quản lý nhà nước và củng cố pháp quyền trong lịch sử Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, 1998
57. Trần Thành, Tư tưởng đẳng cấp, quyền lực, đầu óc địa vị, tâm lý hiếu danh của đạo đức phong kiến và ảnh hưởng của nó trong cán bộ quản lý hiện nay ở nước ta,(in trong: Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay), NXB Chính trị Quốc gia, 2001
58. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999.
59. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP HCM, 1997
60. Hồ Đắc Thọ, Lệ làng, NXB Hà Nội, 1999
61. Hồ Đắc Thọ, Lệ làng Việt Nam trong tâm thức dân gian, NXB Văn hóa Thông tin, 2003 62. Lê Minh Thông, Luật nước và hương ước lệ làng trong đời sống pháp lý của các cộng đồng làng xã Việt Nam, VNH3, TB7 851
63. Chu Khắc Thuật, Nguyễn Văn Thủ (Chủ biên), Văn hóa lối sống với môi trường, NXB Văn hóa Thông tin, 1998
64. Đỗ Lai Thúy, Từ cái nhìn văn hóa, NXB Văn hóa Dân tộc, 1999
65. Lê Đức Tiết, Văn hóa pháp lý Việt Nam, NXB Tư pháp, 2005
66. Trung tâm nghiên cứu Tâm lý dân tộc, Tâm lý người Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ, NXB TP HCM, 2000
67. Hoàng Trinh, Vấn đề văn hóa và phát triển, NXB Chính trị Quốc gia, 1996
68. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước pháp luật, NXB Tư pháp, 2007
69. Đào Trí Úc (chủ biên), Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, (Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước, KX-007, đề tài KX-07-17), 1995
70. Văn hóa tư pháp, Thông tin khoa học Pháp lý, 6/2001
71. Văn hóa trong phát triển và toàn cầu hóa, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, 1996
72. Văn kiện Hội nghị lần thứ V, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb.Chính trị Quốc gia, 1998
73. Lê Thị Hồng Vân, Tập bài giảng Đại cương văn hóa Việt Nam, Đại học Luật TP. HCM, 2009
74. Viện Triết học, Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, NXB Chính trị Quốc gia, 2001
75. Viện Tâm lý học, Tính cộng đồng, tính cá nhân và "cái tôi" của người Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, 2002
76. Nguyễn Quốc Việt, Bảo lưu các giá trị truyền thống trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay (in trong Nhà nước và pháp luật Việt nam trước thềm thế kỉ XXI), NXB Công an Nhân dân, 2002
77. Huỳnh Khái Vinh, Những vấn đề văn hóa Việt Nam đương đại, NXB Khoa học Xã hội, 2000 78. Võ Khánh Vinh: Mối quan hệ giữa xã hội - cá nhân - nhà nước trong nhà nước pháp quyền…, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2 -2003.
79. Trần Quốc Vượng, Đổi mới việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, (in trong Một góc nhìn của tri thức), NXB Trẻ và Tạp chí Tia sáng, 2001 80. V.I Lênin, Toàn tập, Tập 36, NXB Tiến bộ, Matxcơva 1978 II. DANH MỤC CÁC BÀI BÁO ĐƯỢC TRÍCH DẪN 1. Sửa luật, nâng cao ý thức về luật giao thông, Bùi Văn Kiên, Tiền Phong, 22/01/2007 2. Mãi lộ ở cửa ngõ TPHCM, Bùi Văn Phước, Người Lao động, 8, 9/12/2009 3. Bắt đầu từ nhà chức trách công, Nguyễn Ngọc Điện, Sài Gòn Tiếp thị, 04/09/2009 4. Văn hóa giao thông nhìn từ hai phía, Nguyễn Hữu Nguyên, Pháp luật TP.HCM, 26/3/2010 5. Không thể chần chừ trong xử lý, PGS.TS NGUYỄN NGỌC ĐIỆN, Tuổi trẻ, 4/12/2010 6. Lờn thuốc”vì xử phạt không nghiêm, Khánh Yên, Tuổi trẻ, 04/05/2010 7. Cao ốc Pacific: Phớt lờ tất cả, xử lý ầu ơ, Chi Mai, Tuổi trẻ, 18/02/2008 8. “Tha" cho tầng hầm cao ốc Pacific: Cao ốc khác xây lố tầng hầm cũng phải "tha", Pháp luật TPHCM, 28/02/2010 9. Kêu gào đòi lấp 2,5 tầng hầm cao ốc Pacific mới là trái luật, Pháp luật TPHCM, 28/02/2010 10. Đừng để luật nước thua kẻ vi phạm, Pháp luật TPHCM, 25/02/2010 11. Pháp luật đã quy định "giết" thì phải "giết", sao lại "tha"?, Pháp luật TPHCM, 25/02/2010 12. Xin đừng ngụy biện, "Tha" như thế khác nào khuyến khích vi phạm?, Pháp luật TPHCM, 25/02/2010 13. Cao ốc Pacific: 2,5 tầng hầm xây lố được tha, Pháp luật TPHCM, 21/02/2010 14. Cao ốc Pacific: vì sao xây sai phép lại được tồn tại? Chi Mai, Tuổi trẻ, 02/03/2010 15. Hố tử thần”tại TPHCM: Nại đủ lý do chối trách nhiệm? Lao động, 01/11/2010 16. Né trách nhiệm“hố tử thần”, Nguyên Mi, Thanh niên, 9/12/2010 17. Đùn đẩy trách nhiệm“hố tử thần”, Huy Thịnh, Tiền phong, 8/11/2010 18. Hố tử thần”và“hố trách nhiệm” Hạ Nguyên, Dân trí, 29/10/2010 19. Hố tử thần”ở TPHCM: Cần xử lý hình sự? Hưng Nguyên, Gia đình, 17/11/2010 20. Hố tử thần” và “hố đen” trách nhiệm, Minh Quân, SGTT, 2/12/2010 21. Xử lý vụ Vedan “giết” sông Thị Vải: "Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay", Hồng Lê Thọ, Sức khỏe và đời sống, 3/11/2008 22. Sông Thị Vải "bệnh" nặng nhiều năm, dân kêu cứu vô vọng! Thái Thiện, Vietnamnet, 20/9/2008 23. Độc giả phẫn nộ với Vedan và thanh tra môi trường”, Vietnamnet, 17/9/2008 24. Vedan và căn bệnh thường ngày của các cơ quan nhà nước”, Vũ Minh Trực, Vietnamnet, 20/9/2008 25. Vụ Vedan: Trách nhiệm của cơ quan quản lý tới đâu? Vietnamnet, 21/9/2008 26. Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự và Vedan”, Đinh Thế Hưng, Vietnamnet, 18/09/2010. 27. Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm: chưa yên tâm”, Trần Toàn, Sài Gòn Giải phóng, 18/02/2008 28. Quốc hội giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm: Người ít, tiền thiếu, trách nhiệm...cha chung”, Lê Kiên, Pháp luật, 19/6/2009 29. Doanh nghiệp bất chính "lờn" thuốc, người dân lãnh đủ”, Đức Cường, Nông nghiệp Việt Nam, 24/11/2009 30. An toàn vệ sinh thực phẩm: thực tế đáng sợ”, Ngọc Lan, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 10/6/2009 31. Cao điểm vệ sinh an toàn thực phẩm: Đừng chỉ đánh trống, bỏ dùi!”, Lam Nguyên, VNMedia, 14/4/2010 32. Lại chuyện an toàn thực phẩm”, Kim Sơn, Tuổi trẻ, 13/8/2007 33. Xử lý vi phạm an toàn thực phẩm: Có chế tài nhưng không "dám" phạt? Hương Lan, Đời sống pháp luật, 29/02/2009 34. Người tiêu dùng có quá nhiều mối lo, Trúc Giang, Tuổi trẻ, 20/12/2010. 35. Đòi nợ bằng luật rừng, Tấn Chính, CA TP.HCM, 10/4/2010 36. Để dẹp bỏ luật rừng, Nguyễn Quang A, Tuổi trẻ, 15/6/2007 37. Hành xử theo kiểu luật rừng”, Khánh Tuệ, Đất Việt, 21/01/2010 38. Dùng “luật rừng” thay luật tòa”, Khoa Lâm, Pháp luật Việt Nam, 01/10/2010 39. Hình như đã hình thành "luật rừng" trong một bộ phận học sinh”, Cấn Cường, Dân trí, 27/10/2010 40. Qua các vụ nữ sinh đánh nhau: "Luật rừng" đang thâm nhập vào trường học?”, Hoa Hạ, Đời sống pháp luật, 28/10/2010 41. Đánh ghen, bà chánh án TAND tỉnh “đại náo” quán karaoke, Nguyễn Triều Tân Tiến, Người Lao động, 29/32008 42. Công lý và các quan toà, Huy Đức, Sài Gòn Tiếp thị Online, 14/01/2009 43. Khi chuẩn mực ứng xử không phải là luật”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 06/05/2007 44. Phó trưởng Công an xã "làm việc" với dân bằng...đấm, xaluan.com, 18/12/2008 45. Điều chuyển công tác khác đối với một trung tá CSGT, Lao động, 2/2/2010 46. Công an đánh dân: Hệ quả của việc bao che có hệ thống, Lao động, 12/9/2007 47. Dân "tố" công an hành hung người phải nhập viện, Bee.net.viettnam 08/11/2010 48. Ứng xử theo luật rừng”, Lê Thanh Phong, Lao động, 10/04/2009 49. Để dẹp bỏ “luật rừng”, Nguyễn Quang A, Việt Báo, 15/6/ 2007 50. Dẹp bỏ“luật rừng”, GS Tương Lai, Tuổi trẻ, 12/6/ 2007 51. Xã hội có tổ chức đang bị thử thách?Nguyễn Ngọc Điện, Vietnamnet, 09/09/2010 52. Con người hung dữ hay xã hội bất minh?”, Lê Minh Tiến, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 28/03/2010. 53. Cứ “lót tay” việc mới “chạy””, vietnamnet.vn, 14/10/2010. 54. Khi các quan tòa phạm tội, Nguyễn Tấn, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 14/7/2009. 55. Chạy án chạy ai, Nguyễn Đức Mậu, Lao động, 01/04/2006 56. Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao Nguyễn Văn Hiện trả lời trước Quốc hội, Trường Uy, Tuổi trẻ, 28/11/2006. 57. Phận dân và luật nước, Sáu Nghệ, Tiền phong, 30/10/2010. 58. Chính quyền tắc trách, dân khiếu kiện suốt 11 năm, Tùng Quang, Sài Gòn Tiếp thị.VN 59. 16 năm đi kiện cơ quan điều tra, Vũ Mai, VnExpress, 12/8/2008 60. Lâm Đồng – Những bản án “kỳ lạ” của bà thẩm phán Phan Thị Lệ Thuỷ CA TP.HCM, 6/9/2008 61. Thách thức dư luận và pháp luật” Lê Thanh Phong, Tuổi trẻ, 31/8/2010 62. Cán cân công lý đã lệch?, Bùi Quang Minh, Chungta.com, 10/12/2009 63. Văn hóa chạy, Diệp Văn Sơn, Người Lao động, 28/07/2006 64. Còn bao nhiêu những vụ án oan sai đau lòng, Quỳnh Chi, RFA, 23/11/2010 65. Nghĩ về số phận những người bị bắt oan… Tamnhin.net, 17/12/2010 66. Xử oan và sửa sai, Nguyễn Quang Thân, Phụ nữ Online, 2/07/2010 67. Sự “vô nghĩa" của pháp luật!”, Lê Thanh Phong, Lao động, 23/04/2008. 68. Thi hành án: nan giải trước thách thức của...đương sự, Huy Anh, Pháp luật VN, 15/04/2010. 69. Sự "vô nghĩa" của pháp luật! Lê Thanh Phong, Lao động, 23/04/2008. 70. Văn bản pháp luật năm 2005: Sai 30%, Cẩm Văn Kình, Tuổi trẻ, 27/5/ 2006 71. Kiểu sai làm khổ dân! Quốc Phong, Tuoitre Online, 04/6/ 2006 72. Hàng ngàn văn bản có dấu hiệu vi phạm pháp luật, V.Hùng, Tuổi trẻ, 23/12/2010 73. Nhà nước pháp quyền và loạn công văn,Tư Giang, Sài Gòn Tiếp thị, 25/01/2010 74. Phép tắc nhìn từ hai phía, Diệp Văn Sơn, Sài Gòn Tiếp thị, 7/2010. 75. Ứng xử nửa vời và “nỗi lo ba gác”, TS Nguyễn Ngọc Điện, Sài Gòn Tiếp thị, 22/12/2008 76. Văn hóa ứng xử của người làm luật, Nguyễn Ngọc Điện, Tạp chí Tia sáng, 19/02/2008 77. Điều luật gây dị ứng: Cấm xe thô sơ ba, bốn bánh: Một quyết định gây lúng túng cả hai phía, Diệp Văn Sơn, Sài Gòn Tiếp thị, 11/01/2010.

Similar Documents

Free Essay

Religion

...|QUỐC HỘI | |CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM | | | |Độc lập - Tự do - Hạnh phúc | |Số: 50/2005/QH11 | |----- o0o ----- | | | |Hà Nội , Ngày 29 tháng 11 năm 2005 | LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10; Luật này quy định về sở hữu trí tuệ. PHẦN THỨ NHẤT NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG Điều 1. Phạm vi điều chỉnh Luật này quy định về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và việc bảo hộ các quyền đó. Điều 2. Đối tượng áp dụng Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài đáp ứng các điều kiện quy định tại Luật này và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Điều 3. Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ 1. Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản...

Words: 45180 - Pages: 181

Free Essay

Miss

...LUẬT THƯ Ơ N G M ẠI CỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM SỐ 36/2005/QH11 NGÀY 14 THÁNG 6 NĂM 2005 Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10; Luật này quy định về hoạt động thương mại. CHƯƠNG I NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG MỤC 1 PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG Đ i ề u 1 . Phạm vi điều chỉnh 1. Hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Hoạt động thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp các bên thoả thuận chọn áp dụng Luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng Luật này. 3. Hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này. Đ i ề u 2 . Đối tượng áp dụng 1. Thương nhân hoạt động thương mại theo quy định tại Điều 1 của Luật này. 2. Tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại. 3. Căn cứ vào những nguyên tắc của Luật này, Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng Luật này đối với cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh. Đ i ề u 3 . Giải thích từ ngữ Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây...

Words: 40034 - Pages: 161

Free Essay

Import-Export Tax in Vietnam

...HỘI__________Luật số: 45/2005/QH11 | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập – Tự do – Hạnh phúc__________________ |   LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị Quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10; Luật này quy định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.   CHƯƠNG I NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG   Điều 1. Phạm vi điều chỉnh Luật này quy định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam; hàng hóa mua bán, trao đổi của cư dân biên giới và hàng hóa mua bán, trao đổi khác được coi là hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Điều 2. Đối tượng chịu thuế Trừ hàng hoá quy định tại Điều 3 của Luật này, hàng hóa trong các trường hợp sau đây là đối tượng chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: 1. Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam ; 2. Hàng hóa được đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan và từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước. Điều 3. Đối tượng không chịu thuế Hàng hoá trong các trường hợp sau đây là đối tượng không chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: 1. Hàng hoá vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam , hàng hoá chuyển khẩu theo quy định của Chính phủ; 2. Hàng hoá viện trợ nhân đạo, hàng hoá viện trợ không hoàn lại; 3. Hàng hóa từ khu phi thuế quan xuất khẩu ra nước ngoài, hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi...

Words: 5406 - Pages: 22

Free Essay

Kế toáN Nhà HàNg, KháCh SạN

...sản phẩm mới được làm sạch, phơi, sấy khô, bóc vỏ, xay, xay bỏ vỏ, xát bỏ vỏ, tách hạt, tách cọng, cắt, ướp muối, bảo quản lạnh (ướp lạnh, đông lạnh), bảo quản bằng khí sunfuro, bảo quản theo phương thức cho hóa chất để tránh thối rữa, ngâm trong dung dịch lưu huỳnh hoặc ngâm trong dung dịch bảo quản khác và các hình thức bảo quản thông thường khác. Ví dụ 2: Công ty A ký hợp đồng nuôi heo với Công ty B theo hình thức nhận tiền công từ Công ty B hoặc bán lại sản phẩm cho Công ty B thì tiền công nuôi heo nhận từ Công ty B và sản phẩm heo bán cho Công ty B thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Trường hợp Công ty B bán ra hoặc đưa vào chế biến để bán ra thì sản phẩm bán ra thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo quy định. 2. Sản phẩm là giống vật nuôi, giống cây trồng, bao gồm trứng giống, con giống, cây giống, hạt giống, cành giống, củ giống, tinh dịch, phôi, vật liệu di truyền ở các khâu nuôi trồng, nhập khẩu và kinh doanh thương mại. Sản phẩm giống vật nuôi, giống cây trồng thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT là sản phẩm do các cơ sở nhập khẩu, kinh doanh thương mại có giấy đăng ký kinh doanh giống vật nuôi, giống cây trồng do cơ quan quản lý nhà nước cấp. Đối với sản phẩm là giống vật nuôi, giống cây trồng thuộc loại Nhà nước ban hành tiêu chuẩn, chất lượng phải đáp ứng các điều kiện do nhà nước quy định. 3. Tưới, tiêu nước; cày, bừa đất; nạo vét kênh, mương nội đồng phục vụ sản xuất nông nghiệp; dịch vụ thu hoạch sản phẩm nông nghiệp. 4. Sản phẩm muối được sản xuất...

Words: 5307 - Pages: 22

Free Essay

Kinh Tế

...TẾ QUỐC TẾ CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TS. Phạm Văn Khánh Báo Nhân Dân Đặt vấn đề Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, thực hành đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị với các quốc gia, dân tộc trên thế giới đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra từ khi thành lập Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước đã đề ra đường lối mở cửa kinh tế, chuyển nền kinh tế sang kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể nói, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước. Thực hiện chủ trương này, sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã hội nhập sâu và toàn diện vào nền kinh tế thế giới. Tiếp tục đường lối đối ngoại rộng mở, Văn kiện Đại hội X của Đảng nêu rõ: Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới. Từ khi Việt Nam chính thức là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã đặt ra nhiều vấn đề mới về lý luận và thực tiễn. Bài viết nhằm...

Words: 10908 - Pages: 44

Free Essay

Noname

...hiện đầy đủ các nghĩa vụ với tư cách là thành viên tham gia các hiệp định cũng như các cam kết bổ sung đối với các thành viên khác của WTO trước khi được các nước thành viên chấp nhận cho Việt Nam gia nhập WTO trong tất cả các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại, đầu tư, mua sắm chính phủ, chống trợ cấp v.v... Nghĩa vụ quan trọng nhất của một thành viên của WTO là thực hiện đầy đủ các nguyên tắc hoạt động cơ bản của WTO, đó là không phân biệt đối xử, mở cửa thị trường thương mại tự do hơn, tăng cường cạnh tranh công bằng, khuyến khích phát triển kinh tế và tính dễ dự báo trong thương mại. WTO coi các nguyên tắc cơ bản này là triết lý nền tảng cho hoạt động của mình nhằm thúc đẩy phúc lợi quốc gia tại tất cả các nước không chỉ là thành viên của WTO mà còn có tác động đến cả các quốc gia chưa phải là thành viên và để giúp các nước này tích cực tham gia vào một sân chơi thương mại tự do. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu và đánh giá việc thực hiện cam kết không phân biệt đối xử của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại dịch vụ theo Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) của WTO. 1. Nội dung của nguyên tắc “Không phân biệt đối xử trong GATS” Không phân biệt đối xử được xem là nguyên tắc đầu tiên khi nhắc tới nghĩa vụ của các thành viên WTO. Nguyên tắc này được ghi nhận trong tất cả các hiệp * Thạc sỹ, Khoa Quốc tế học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội...

Words: 5124 - Pages: 21

Free Essay

Organizational Development

...quản lý doanh nghiệp Việt Nam, Hãy đến với Hoa Kỳ để sống và làm việc trong ít nhất là 5 tháng với MỘT Visa l-1. Trong vài năm qua, các nhà đầu tư nước ngoài chương trình thẻ xanh EB-5 đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm ở Việt Nam và gần như tất cả mọi người mà bạn gặp trên đường phố ở Việt Nam đều là một chuyên gia cả về các nhân đức và những khó khăn đặc biệt mà các nhà đầu tư Việt phải đối mặt trong vòng loại chương trình. Tuy nhiên với các chương trình hiện tại sẽ hết hạn vào ngày 30 tháng 9 năm 2016, vòng loại EB-5 là khả năng mà các nhà đầu tư Việt EB-5 gặp rất nhiều khó khăn. Trong thực tế, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực này đồng ý rằng đến ngày 01 Tháng 10 năm 2016 hiện nay tối thiểu đầu tư EB-5 sẽ tăng từ 500.000 USD đến 800.000 USD và tiêu chuẩn đầu tư EB-5 sẽ tăng từ 1 triệu USD đến 1,2 triệu USD. Tuy nhiên, với tất cả các cuộc nói chuyện về EB-5 chương trình và thay đổi sắp tới trong tháng mười, một số nhà đầu tư EB-5 từ Việt Nam có thể ngạc nhiên khi biết rằng các chương trình visa L-1 có thể cung cấp một tuyến đường ưa thích hơn để tình trạng thẻ xanh cho nhiều nhà đầu tư đang xem xét các chương trình EB-5 nên phổ biến hơn. Visa L-1 là gì? Visa L-1 là một thị thực không di dân tạm thời cho phép cả người nhập cư và ý định không di dân, trong đó cho phép các công ty nước ngoài chuyển nơi ở nhân viên có trình độ sang Mỹ để sinh sống và làm việc tại công ty con hoặc công ty mẹ ở Hoa Kỳ. Điều kiện cho một visa L-1 Để cho bất kỳ đương đơn Việt có đủ điều kiện...

Words: 1745 - Pages: 7

Free Essay

Thao Minh

...CHUYÊN ĐỀ 6 NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN, TOÀN CẦU HOÁ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM (Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch lên chuyên viên chính khối Đảng, Đoàn thể năm 2013) Phần 1 NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM I. KHÁI QUÁT VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên con đường phát triển và nền kinh tế TBCN chính là nền kinh tế thị trường phát triển đến trình độ phổ biến và hoàn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế XHCN. Để chuyển lên nấc thang này, nền kinh tế thị trường phải phát triển hết mức, phải trở thành phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội. Đây là một kết luận lý luận quan trọng. Nó khái quát quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, trong đó, kinh tế thị trường được xác định là một nấc thang tất yếu, mang tính phổ biến. Tính phổ biến của kinh tế thị trường thể hiện ở cấu trúc khung chung cho mọi nền kinh tế thị trường. 1. Những yếu tố cơ bản của kinh tế thị trường Kinh tế thị trường nói chung bao hàm những yếu tố chủ yếu cơ bản như sau: Thứ nhất, độc lập của các chủ thể trong nền kinh tế Nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Các chủ thể này hoàn toàn động lập, tự chủ trong việc quyết định: sản xuất...

Words: 28509 - Pages: 115

Free Essay

I Love You

...mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà loài người đạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội... không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động. Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội. Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị. Sau khi giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. V.I.Lênin viết "Trong điều kiện chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước được. Câu 2- Cuộc cách mạng công...

Words: 11671 - Pages: 47

Free Essay

Finance

...Đô la hóa và điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam ThS. Nguyễn Thị Hồng[1] Trong thập kỷ qua, mặc dù lạm phát đã được kiểm soát và có xu hướng ổn định ở mức thấp, đô la hoá vẫn còn là hiện tượng phổ biến ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi, trong đó có Việt Nam. Trong một môi trường kinh tế còn tình trạng đô la hóa thì việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng gặp nhiều khó khăn, cần phải đánh giá đúng thực trạng và những tác động của nó đến việc điều hành chính sách để đề xuất các giải pháp hiệu quả. Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ phân tích xu hướng đô la hóa theo một số cách tiếp cận, đánh giá tác động của hiện tượng đô la hóa đối với việc điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm qua, đồng thời đưa ra một số gợi ý chính sách trong thời gian tới. 1. Đô la hóa tiền gửi có xu hướng giảm xuống trong khi mức độ đô la hóa tiền mặt biến động phụ thuộc vào rủi ro kinh tế vĩ mô Trước hết, cần phải thấy rằng đối với các nền kinh tế có mức độ tiền tệ hoá cao, các khu vực của nền kinh tế có xu hướng gửi tiền vào hệ thống ngân hàng thì việc đánh giá mức độ đô la hoá của nền kinh tế nói chung cũng như từng khu vực nói riêng không mấy khó khăn (dựa vào tỷ lệ giữa tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán hoặc tổng tiền gửi; tỷ lệ giữa tín dụng ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán hay tổng tín dụng). Theo tiêu chí đánh giá của...

Words: 4541 - Pages: 19

Free Essay

Business

...Quy tắc ứng xử trong kinh doanh honeywell THôNG Điệp Từ TGĐĐH Của CHúNG Ta Các đồng nghiệp thân mến: Do honeywell liên tục phát triển nên chúng ta phải duy trì sự tập trung vào những kỳ vọng và cam kết của mình vào tính minh bạch và Mười hai hành vi của honeywell. Quy tắc ứng xử trong kinh doanh của chúng ta là lộ trình để giúp bạn điều hướng các môi trường hoạt động trong bốn doanh nghiệp của chúng ta, bao gồm một số lĩnh vực năng động nhất trong nền kinh tế toàn cầu. Chúng ta có vị thế cao trong những ngành tốt và chịu trách nhiệm với hành vi của chính mình với mức độ minh bạch cao nhất ở mọi khía cạnh hoạt động. Tính minh bạch giúp đảm bảo rằng chúng ta tiếp tục giữ vững được sự tín nhiệm của thương hiệu, duy trì uy tín cao và xây dựng một bảng thành tích về tăng trưởng và hiệu suất. Quy tắc và Mười hai hành vi của chúng ta áp dụng cho mọi người và giúp chúng ta tạo thành một thể thống nhất tại honeywell. Hãy bỏ thời gian để đọc hết Quy tắc của honeywell và hiểu tài liệu hướng dẫn này. Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về Quy tắc, hoặc cần giúp đỡ để hiểu cách thức tài liệu này được áp dụng vào công việc của mình, hãy tìm kiếm lời khuyên từ bất kỳ nguồn nào được liệt kê. Công ty chúng ta sẽ không bao giờ dung thứ cho hành vi trả đũa chống lại người nào đã đưa ra câu hỏi hoặc quan ngại một cách thiện chí nên bạn có thể yên tâm khi thực hiện việc này. Chúng ta cũng kỳ vọng rằng nếu bạn thấy bất kỳ người nào trong số các đồng nghiệp không tuân thủ Quy tắc của honeywell, thì...

Words: 17323 - Pages: 70

Free Essay

Use This Method If You'D Like to Upload a Document from Your Computer. We Support the Following File Types: Doc, Docx, Pdf, Wps, Rtf, Odt

...Phương pháp nghiên cứu khoa học TS. Trần Tuấn Anh Tp Hồ Chí Minh, 2013 1 Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học Số tin chỉ: 2 Mục tiêu: Cung cấp những kiến thức cơ bản về nghiên cứu khoa học. Bắt đầu từ chọn đề tài nghiên cứu, lập kế hoạch nghiên cứu, tìm và xử lý tài liệu tham khảo, cách thức viết, trình bày một báo cáo kết quả nghiên cứu – Đặc biệt là tập trung vào việc thực hiện được các tiểu luận, đề án, luận văn tốt nghiệp. Đánh giá: Làm tiểu luận (bài tập lớn): 30%. Thi cuối kì (tự luận): 70%. 2 Tài liệu tham khảo Giáo trình chính: 1. Hoàng Văn Huệ, Phương pháp tiếp cận nghiên cứu khoa học, Trường đại học Công Nghiệp Thực Phẩm tp. Hồ Chí Minh, 2011. Tài liệu tham khảo: 1. Vũ Cao Đàm. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học. NXB Khoa học và Kỹ thuật. 2007. 2. Nguyễn Văn Tuấn. Đi vào nghiên cứu khoa học. NXB Tổng hợp TPHCM. 2011. 3. Nhật Từ, Cẩm nang viết khảo luận, luận văn, luận án. NXB tp.HCM, 2003. 4. Vũ Gia Hiền, Để viết bài luận văn tốt, NXB Lao Động, 2006. 3 Mở đầu: Đối tượng và ý nghĩa của phương pháp luận NCKH I. Đối tượng và nội dung nghiên cứu của phương pháp luận NCKH II. Ý nghĩa của nghiên cứu và nắm vững phương pháp luận NCKH Bốn lời khuyên vàng của Steven Weinberg 4 I. Đối tượng và nội dung nghiên cứu của phương pháp luận NCKH • Đối tượng nghiên cứu: + Tổng kết, phân loại, hệ thống hóa hoạt động NCKH + Khái quát cơ chế, phương pháp sáng tạo khoa học. + Tìm tòi biện pháp tổ chức, quản lý quá trình nghiên cứu khoa học...

Words: 1434 - Pages: 6

Free Essay

Docgkkỵhvj

...thuật ngữ được trình bày từ nhiều góc độ khác nhau. - Công vụ là hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước. - Công vụ là một hệ thống bao gồm tất cả hoạt động của những người lao động mang tính dân sự trong các cơ quan nhà nước và được bổ nhiệm dựa trên năng lực, không phải dựa vào sự liên kết chính trị. - Công vụ theo từ điểm Oxford, được hiểu là toàn bộ các cơ quan của Chính phủ không kể lực lượng quân đội hoặc công vụ sử dụng để chỉ một nhóm người làm việc trong các cơ quan nhà nước ( dân sự). - Công vụ là hoạt động đem lại quyền lợi ích chung cho mọi người. Điều này cũng có thể thấy: công vụ (thuật ngữ) càng gắn với khái niệm dịch vụ công, khu vực công, hành chính công. - Công vụ là một loại lao động (hoạt động) đặc biệt thực hiện chức năng quản lý nhà nước, thi hành pháp luật , sử dụng có hiệu quả nguồn lực công ( công sản, ngân sách ) nhằm đáp ứng mục tiêu của Nhà nước (chính trị) đã đề ra trong giai đoạn phát triển .Tuy nhiên, công vụ thường hiểu theo nghĩa các hoạt động, cụ thể hơn là cơ cấu. - Công vụ gắn liền trực tiếp với con người là công chức. Công vụ bao gồm toàn bộ những người được Nhà nướọng đồng lãnh thổ bổ nhiệm vào một công việc thường xuyên trong một trong một công sở hay một thực thể công và được xếp vào một trong những ngạch của nền hành chính. Trong một số tài liệu đang sử dụng ở nước ta, thuật ngữ công vụ được hiểu là: - Công vụ là hoạt động của các tổ chức, cơ quan nhà nước nhằm thực hiện ý chí của nhân dân. - Công vụ là quy chế, nguyên...

Words: 8613 - Pages: 35

Free Essay

Life Needed

... TS. Ngô Văn Hà Tập bài giảng ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (Tài liệu phục vụ dạy và học khối không chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh) (Lưu hành nội bộ) ĐÀ NẴNG – 2013 CHƯƠNG MỞ ĐẦU ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM I. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu a. Khái niệm “Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam” - Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, vấn đề cơ bản là đề ra đường lối cách mạng và hoạch định đường lối. - Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách mạng Việt Nam. - Đường lối cách mạng của Đảng là toàn diện và phong phú. Có đường lối chính trị chung, xuyên suốt cả quá trình cách mạng. Có đường lối cho từng thời kỳ lịch sử. Ngoài ra còn có đường lối cách mạng vạch ra cho từng lĩnh vực hoạt động. - Đường lối cách mạng của Đảng chỉ có giá trị chỉ đạo thực tiễn khi phản ánh đúng quy luật vận động khách quan. Vì vậy, Đảng phải thường xuyên chủ động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, phát triển đường lối. - Để tăng cường vai trò lãnh đạo...

Words: 53758 - Pages: 216

Free Essay

Bachelor

...“Hiểm họa to lớn nhất đối với nhà nước chính là những lời phê bình từ các nhà trí thức độc lập.” – Murray Rothbard Phơi Bày Bản Chất Nhà Nước Dẫn nhập Cuốn sách này đưa ra một trình thuật cô đọng từ góc nhìn của Rothbard về Nhà nước. Nối tiếp Franz Oppenheimer và Albert Jay Nock, Rothbard cũng nhìn nhận Nhà nước như một thực thể bóc lột. Nó không sản xuất ra bất kì thứ gì nhưng lại trộm cướp nguồn lực từ những người tham gia sản xuất. Khi áp dụng quan điểm này lên lịch sử nước Mỹ, Rothbard cũng mượn đến những trước tác của John C. Calhoun. Làm thế nào một tổ chức thuộc dạng này có thể duy trì chính bản thân nó? Nó phải vận dụng tuyên truyền để giành được sự ủng hộ của quần chúng đối với những chính sách của nó. Giới trí thức và tòa án đóng một vai trò then chốt ở đây, và Rothbard dẫn ra tác phẩm của nhà lý thuyết pháp luật có ảnh hưởng lớn Charles Black, Jr. như một điển hình của sự huyễn hoặc về tư tưởng trong quá trình Tòa án Tối cao trở thành một cơ quan được sùng kính. Mục lục Nhà Nước Không Đồng Nghĩa Với Điều Gì …................................................................................... 1 Nhà Nước Là Gì ….............................................................................................................................. 4 Nhà Nước Bảo Toàn Chính Nó Như Thế Nào …................................................................................. 7 Nhà Nước Vượt Qua Những Giới Hạn Của Nó Như Thế Nào …...................

Words: 16048 - Pages: 65